Medication for Glaucoma


Thuốc Trị Liệu Bệnh Tăng Nhăn Áp

(Medications for Treatment of Glaucoma)

Giang Nguyễn Trịnh, R.Ph., D.Ph.

Summary

 Glaucoma, a chronic ophthalmic condition, affects approximately 66.8 million people worldwide (*). The facts and types of glaucoma are listed in this article. Medical treatments should be initiated as a monotherapy with topical beta-blocker in the patient who has no cardiac or pulmonary disease. Several therapies currently are available beside beta-blockers (eg, synpathomimetics, carbonic anhydrase inhibitors, prostaglandins, mimotics). Combination therapy is used if monotherapy is ineffective. When the patient has failed to respond to combination therapy, and perhaps, laser treatment (argon laser trabeculoplasty, ALT), a glaucoma filtration procedure (trabeculectomy) is recommended.

(*) Number of people with glaucoma worldwide. Quigley HA. Wilmer Institute, Johns Hopkins University School of Medicine, Baltimore 21287, USA. Br J Ophthalmol. 1997 Jan;81(1):93.

Dẫn nhập

Bệnh tăng nhăn áp, trước đây được gọi là bệnh xanh mắt hay chứng đau mắt con ngươi hóa ra sắc lục, là một bệnh rất thông thường gây nên xáo trộn trong con mắt và có thể dẫn tới mù ḷa.

Đặc trưng của bệnh tăng nhăn áp là sự suy thoái dần dây thần kinh thị giác. Hầu hết trường hợp bị tăng nhăn áp là do áp suất ở trong mắt lên cao, tuy đôi khi cũng có trường hợp áp suất trong mắt không tăng cũng vẫn bị mắc bệnh này (1).

Trong nước Mỹ, số người bị bệnh glaucoma theo ước tính năm 2000 vào cỡ 2.47 triệu (theo Glaucoma Foundation 2001), glaucoma là bệnh làm người Mỹ da đen (African Americans) với số tuổi trên 60 bị mù mắt nhiều nhất, và nói chung là lư do thứ nh́ làm mù mắt chính thức trong dân chúng của những nước văn minh (2). Bệnh tăng nhăn áp  góc mở  tiên khởi chính (primary open-angle glaucoma) chiếm gần 70% trong số tất cả những trường hợp bị glaucoma và 90 đến 95% của tất cả những trường hợp bị bệnh cao nhăn áp tiên khởi (3).

Bệnh tăng nhăn áp góc mở liên hệ đến tuổi, trong những nước văn minh Âu Mỹ, số dân da trắng bị nhiễm bệnh có tỷ số cỡ 1.3% và giống dân da đen với tuổi trung b́nh trên 30 tuổi, tỷ số mắc bệnh cao nhăn áp cỡ 3.5% (4).  Điển h́nh của bệnh tăng nhăn áp gồm khi áp suất trong mắt (intraocular pressure = IOP) tăng cao hơn 21 mm Hg, thị lực nh́n trung ngoại biên bị mất mát cộng thêm đáy mắt bị lơm xuống (4). Mặc dù sựï tăng áp xuất trong mắt không phải luôn luôn hiện diện trong bệnh tăng nhăn áp, nhưng nó là yếu tố rủi quan trọng nhất trong bệnh này.  Ngoài yếu tố tiên khởi cho bệnh glaucoma, những yếu tố rủi khác như tuổi, tiểu sử gia đ́nh đă có người mắc bệnh, giống ṇi, và áp suất dẫn huyết trong mắt thấp.  Bệnh tiểu đường, bệnh cận thị, và bệnh cao áp huyết cũng có thể là những yếu tố làm bệnh glaucoma phát triển (1). Những thuốc dùng tại chỗ nếu được dùng đúng lúc sẽ có nhiều cơ hội làm chậm sự tiến triển của bệnh đưa tới mù mắt.

Mục đích của điều trị glaucoma là làm sao để làm giảm áp huyết trong mắt (IOP) tới một mực mà sự hư hại thị lực của mắt được ngăn chặn bớt lại. Mức chủ đích này thay đổi tùy cá nhân (2,3).

Cấu tạo của con mắt

structure of the eye

Trước khi bàn về thuốc trị glaucoma, tưởng cần nói qua về cấu tạo căn bản của con mắt.

Phía ngoài cùng của con mắt phía trước là giác mạc (cornea), nh́n thẳng vào con mắt th́ thấy mống mắt (iris), mống mắt là những tế bào làm nên màu của con ngươi, và có nhiệm vụ đóng mở như một máy chụp h́nh để kiểm soát ánh sáng chiếu vào mắt. Sau mống mắt là thủy tinh thể (the lens), thủy tinh thể thâu tụ ánh sáng và đụng vào vơng mạc, vơng mạc là một màng thần kinh truyền điện thu nhận ánh sáng rồi sau đó chuyển hóa những ánh sáng này thành những dấu hiệu mang đến thần kinh thị giác (optic nerve). Thần kinh thị giác là một bó cỡ 1 triệu sợi dây thần kinh có nhiệm vụ chuyển đạt những tín hiệu từ mắt đến năo, từ năo những tín hiệu này biến thành h́nh ảnh.

Mắt cũng gồm có hai pḥng chứa đựng thủy dịch. Pḥng phía sau là khoảng lớn đằng sau mống mắt. Thủy dịch trôi từ pḥng này sang pḥng phía trước nằm trong khoảng lồi ra giữa mống mắt và phía trước của mắt. Thủy dịch (aqueous humor) này luân chuyển liên tục xuyên qua pḥng phía trước ở con mắt lành mạnh (5). Thủy dịch này khác với nước mắt, và cũng không giống như  chất nhày đặc pha lê dịch (vitreous humor) của pḥng sau (rear chamber) của mắt. Nó nuôi dưỡng khoảng chung quanh mống mắt và đàng sau giác mạc, và nó bảo tŕ một áp suất vừa đủ duy tŕ h́nh dạng của mắt, được gọi là áp suất trong mắt (intraocular pressure= IOP). Áp suất b́nh thường trong mắt đo được trong khoảng 10 đến 20 mm Hg. Để bảo tŕ áp huyết mắt trong giới hạn đó, thủy dịch cần thoát ra ngoài mống mắt và vơng mạc qua một ngả gọi là góc thoát thủy dịch (drainage angle) để chẩy vào gịng máu. Tại góc thoát này, thủy dịch chảy qua mạng lọc thủy dịch (trabecular meshwork) và đường mạc thể ở mống mắt, cũng được gọi là màng mạch nho củng mạc (5).

Phân loại bệnh nhăn áp cao

Bệnh tăng nhăn áp góc-mở (Open-angle glaucoma)

Bệnh này gồm tiên khởi tăng nhăn áp góc mở (primary open-angle glaucoma, POAG) và tăng nhăn áp góc mở kinh niên (6).

Bệnh tăng nhăn áp góc mở do những kênh nhỏ li ti trong mạng lọc thủy dịch (trabecular meshwork) bị nghẽn nên thủy dịch (aqueous humour) không thể lưu thông tự do qua được. V́ lối thoát ra này bị nghẹt nên áp suất trong pḥng trước (anterior chamber) của mắt bị tăng lên và làm mất quân b́nh giữa thể tích thủy dịch tạo nên và thoát bỏ. Đôi khi sự mất quân b́nh có thể do thủy dịch được tạo nên quá nhiều nhưng rất ít có trường hợp xẩy ra như vậy.

Lượng thặng dư thủy dịch này làm tăng áp suất trên dây thần kinh thị giác phía đằng sau mắt.

Nếu áp suất này không được điều trị, nó sẽ làm hư hại những dây mảnh mai chuyển h́nh ảnh tới óc, và dần dần dây thần kinh này thoái hoá làm cho người bệnh bị mù không chữa được. Bệnh này thường xẩy ra ở cả hai mắt.

Bệnh cao nhăn áp góc đóng (Closed-angle glaucoma)

Bệnh loại này gồm cao nhăn áp tiên khởi và măn tính, tuy nhiên cũng có thể phát triển chậm và trở nên kinh niên (6).

Trong trường hợp glaucoma góc đóng này, mống mắt (iris) bị đẩy vào lăng kính mắt, đôi khi dính liền vào lăng kính mắt, làm cho ống thoát góc mắt bị đóng lại. Từ đó áp suất trong mắt gia tăng. Trường hợp này ít xẩy ra , và cũng  có thể xẩy ra do con ngươi thu hẹp lại bất th́nh ĺnh. Cách trị liệu tốt nhất trong trường hợp măn tính là thủ thuật mở/rạch mống mắt ngoại biên (peripheral iridotomy) bằng laser hay phẫu thuật cắt bỏ mống mắt ngoại biên (peripheral iridectomy). Sau khi trị liệu bằng laser hay phẫu thuật, một lỗ nhỏ tạo nên trong mống mắt giúp cho thủy dịch lưu thông dễ dàng. Sau phẫu thuật bệnh nhân phải dùng thuốc nhỏ mắt trị bệnh tăng nhăn áp.

Một điểm đáng chú ư bệnh glaucoma góc đóng này có tỷ lệ mắc bệnh ở Á Châu cao hơn ở tại những nơi khác.

Bệnh tăng nhăn áp dù áp suất trong mắt vẫn b́nh thường (Normal pressure glaucoma/Low-tension glaucoma)

Trường hợp này áp suất trong mát vẫn ở trong ṿng từ 12 đến 22 mm Hg nhưng thị lực vẫn bị tổn hại, và có sự hiện diện của những dây thần kinh thị giác bất b́nh thường.  Bệnh này xẩy ra cho 1/3 tất cả những bệnh nhân bị bệnh glaucoma. Giả thuyết cho rằng dẫn huyết kém (hypoperfusion - poor blood flow) của dây thần kinh thị giác, những yếu tố cơ học (mechanical factors) ở trong và chung quanh dây thần kinh, những yếu tố  sinh hóa học (biochemical factors) có thể giữ vai tṛ quan trọng trong bệnh glaucoma. Chứng nhức nửa đầu (migraine) thường hiện diện trong loại bệnh này làm người ta nghĩ rằng có một sự liên hệ quan trọng trong sự dẫn huyết chậm/kém (hypoperfusion) và glaucoma.

Thuốc  nhỏ mắt nếu dùng trong trường hợp này là brimonidine (alpha 2 adrenergic agonist). Theo những tường tŕnh gần đây, tại Nhật bản, tỷ lệ  bệnh nhân bị glaucoma mà nhăn áp vẫn b́nh thường lên cao tới 70%, thần kinh thị giác bị hư hại, thị lực sút kém nhưng nhăn áp vẫn ở giữa 12 đến 22 mm Hg.

Bệnh tăng nhăn áp do bẩm sinh (Congenital glaucoma)

Nhiều trẻ em sinh ra với khuyết điểm ở góc của mắt, làm cho thủy dịch thoát ra chậm chạp, những trẻ em này bị những triệu chứng như mắt như có vướng mây đục, rất nhạy cảm với ánh sáng và hay chẩy nước mắt. Những điều kiện này có thể liên quan đến một số bệnh bất thường như bệnh u xơ thần kinh (neurofibromatosis), rubella bẩm sinh (congenital rubella), các hội chứng như Lowe’s syndrome, Sturge-Weber syndrome, homocystinuri, Marfan’s syndrome, and Weill-Marchesani syndrome. Bệnh loại này hiếm, chỉ cỡ một em bé mới sinh trong mỗi 10,000 trẻ  có thể mắc phải. Bệnh cao nhăn áp bẩm sinh này thường được điều chỉnh bằng vi phẫu thuật mắt (microsurgery).

Những bệnh tăng nhăn áp khác

Những loại bệnh tăng nhăn áp này có nhiều nguyên do khác nhau. Bệnh này có thể do hậu giải phẫu mắt hay do bệnh có cườm mắt ở giai đoạn nặng, mắt bị thương tổn, một số có bướu trong mắt, hay bị sưng mắt do viêm màng mạch nho (uveites).

Pigmentary glaucoma là một loại tăng nhăn áp mắt do những sắc tố trong đáy mắt phân tán vào thủy dịch làm cản trở lưu thông của thủy dịch thể trong mạng lọc thủy dịch (trabelular meshwork) (6).

Pseudoexfoliation glaucoma xẩy ra sau khi hội chứng tróc vẩy giả (pseudoexfoliative syndrome) hiện diện với những chất lạ tróc ra từ lớp ngoài của nhân mắt/thể thủy tinh (lens), và tích tụ ở góc thoát dịch (drainage angle) (6).

Neovascular glaucoma, một loại trầm trọng hơn gọi là bệnh nhăn áp liên quan đến mạch máu mới thường liên quan đến những bệnh nhân mắc bệnh vơng mạc do tiểu đường (proliferative diabetic retinopathy), và nghẹt tĩnh mạch vơng mạc trung ương (central retinal vein occlusion). Bệnh này do sự phát triển những mạch máu mới bất thường tại góc con mắt làm cản trở lưu thông thủy dịch thể qua mạng lọc thủy dịch (trabecular meshwork) (6).

Steroid induced glaucoma. đôi khi những thuốc uống chứa steroids để trị những bệnh liên quan đến mắt hay những bệnh khác có thể gây nên bệnh tăng nhăn áp  ở một số bệnh nhân (6).

Điều trị

Sự khảo sát tổng quát

Ba yếu tố quan trọng căn bản cho sự khám xét bệnh nhân để xem bệnh nhân có cần được chữa trị không là áp suất trong mắt, sự hư hại của dây thần kinh thị giác, và  mất thị lực. Tuy nhiên không phải cả ba yếu tố đều suất hiện. Sự chữa chạy ở đây tùy thuộc vào điều kiện xă hội và sức khỏe của bệnh nhân.

Cần chú trọng đến sự hư hại đă xẩy ra, sự tiến triển nhanh chậm của sự hủy hoại này, và ước lượng thời gian sự hủy hoại tiếp tục tích tụ dần lên.

Nếu bệnh nhân không bị hư hại thần kinh thị giác hay thị lực bị thu hẹp lại, và nếu IOP cao hơn 27 mm Hg, sự  chữa trị c̣n phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như  trong gia đ́nh đă có người bị rồi, giống dân da đen, ước lượng xem bệnh nhân c̣n sống được bao lâu nữa, và chữa trị bằng cách nào (1).

Mục tiêu của trị liệu là cốt để duy tŕ t́nh trạng sức khỏe của bệnh nhân, có thể làm giảm được bệnh mà không tạo nên những vấn đề có thể do trị liệu gây ra. Thông thường mục tiêu là làm giảm IOP cỡ 30% để ngăn chặn sự hủy hoại của dây thần kinh mắt. Tùy theo phương thức áp dụng mục tiêu giảm IOP có thể xuống tới 15mm Hg.

V́ bệnh glaucoma là một bệnh kinh niên và thông thường cần được chữa trị lâu dài, cách trị liệu cần bảo đảm được sự hiệu nghiệm, an toàn, tiện lợi và bệnh nhân dung thứ được thuốc.

Những dược phẩm dùng để điều tri bệnh tăng nhăn áp

Với những bệnh nhân không bị bệnh đường tim mạch hay đường phổi, dược phẩm thông dụng để chữa trị là thuốc nhỏ mắt thuộc loại  ngăn chặn beta (beta-blockers) như là một đơn thuốc trị liệu.

Những trị liệu chỉ dùng một thứ thuốc khác cũng có thể được dùng là prostaglandins, carbonic anhydrase inhibitors (CAIs) hay alpha 2 adrenergic agonists. Chỉ sau khi đơn thuốc trị liệu không có hiệu quả, kết hợp trị liệu mới được dùng. Và sau khi kết hợp trị liệu cũng thất bại th́ phương pháp trị liệu mạng lọc thủy bằng laser (argon laser trabeculoplasty) hay phẫu thuật mạng lọc thủy (trabeculectomy) mới được áp dụng.

Hầu hết những thuốc được dùng để trị bệnh tăng nhăn áp đều dưới dạng thuốc bôi/nhỏ tại chỗ mà không là thuốc uống qua hệ thống tuần hoàn. Ưu điểm của lối dùng thuốc này là làm giảm những phản ứng phụ gây nên bởi thuốc uống qua đường tuần hoàn. Thuốc bôi hay nhỏ này muốn có hiệu nghiệm th́ phải có cả hai đặc tính tan được trong nước và trong chất mỡ/béo. Thuốc cũng cần được bào chế trong môi trường kiềm yếu, acid yếu, hay pH trung ḥa bởi v́ những hợp chất không ionised th́ dễ thẩm thấu chất mỡ hơn.

Môi trường dùng để chế thuốc cũng được xác định để ước tính số lượng thuốc có thể thâm nhập qua giác mạc (cornea). Thí dụ như chất hydroxypropyl methylcellulose hay polyvinyl alcohol thêm vào một công thức thuốc bôi/nhỏ mắt làm thuốc ở lại trong giác mạc lâu dài hơn, và nhờ đó có hiệu quả hơn.

Những môi trường khác làm gia tăng thời gian thuốc tiếp cận với giác mạc gồm keo đặc tan được (soluble gels), dịch treo (suspension) và nhũ tương (emulsions). Ngoài ra những thuốc gài đặt vào trong mắt  (ocular inserts) điều chế với hai màng trùng hợp (polymeric) làm cho thuốc phân tán chậm hơn và tác dụng có thể kéo dài tới một tuần.

Hiện nay, có năm loại thuốc được sắp loại để trị bệnh tăng nhăn áp.

Bảng 1 (3,7)

Phân loại thuốc

Lớp phụ

Tên đồng chủng/Đặc chế

Thuốc ngăn chặn beta
Beta-blockers

không chuyên biệt
(nonselective)

 
--------------------------------------
chuyên biệt beta (beta 1-selective)

Timolol/Timoptic (R)
Levobunolol/Betagan (R)
Carteolol/Occupress (R)
Metipranolol
---------------------------------------
Betaxolol/Betoptic (R)

Nhóm các chất giống như hormone.
Prostaglandins

 

Latanoprost/Xalatan (R)
Bimatoprost/Lumigan (R)
Unoprostone/Rescula (R)
Travoprost/Travatan (R)

 

Thuốc ức chế carbonic anhydrase.

Carbonic anhydrase inhibitors

thuốc uống (oral)
 
---------------------------------------
thuốc nhỏ (topical)

Acetazolamide/Diamox (R)
Methazolamide/Neptazane (R)
---------------------------------------
Dorzolamide/Trusopt (R)
Brinzolamide/Asopt (R)

Thuốc giống giao cảm phóng thích adrenaline.

Adrenergic agonists (sympathomimetics)

alpha 2-adrenergic agonists

---------------------------------------
không chuyên biệt (nonselective)

Brimonidine/Alphagan (R)
Apraclonidine/Iodipine (R)
---------------------------------------
Epinephrine (adrenaline)
Dipiveprine /Propine(R)

Thuốc thu hẹp đồng tử
Miotics

 

Pilocarpine/Isopto Carpine (R)
Carbachol/Isopto(R) carbachol

Bảng so sánh vài đặc trưng của một số thuốc để trị bệnh tăng nhăn áp góc mở

Bảng 2 (3,4)

Đặc chất

Feature

Timolol

(Timoptic

Timoptic XE)

Betaxolol

(Betoptic,

BetopticS)

Latanoprost

(Xalatan)

Dorzolamide

(Trusopt)

Brimonidine

(Alphagan)

Phân loại

Class

 nonselective b-adrenoceptor blocker

b1-selective adrenoreceptor blocker

prostaglandin

carbonic ahydrase inhibitor

alpha2-adrenergic agonist

Cơ chế tác dụng

(Mechanism of action)

ngăn cản sản xuất thủy dịch (inhibits aqueous humor prod.)

ngăn cản sản xuất thủy dịch (inhibits aqueous humor product)

tăng chảy thoát  qua mạc thể (increase uveoscleral outflow)

ngăn cản sản xuất thủy dịch (inhibits aquaous humor product)

giảm sản xuất thủy dịch

Dosage regimen

Solution:
0.25-0.5%
Gel: 0.25% ngày một lần

Solution:
0.25-0.5%
Suspension:
0.25% ngày hai

0.005% solution , dùng  ngày một lần vào buổi tối

2% solution, ngày hai lần

0.2% solution, ngày hai lần

Độ  hiệu nghiệm

Efficacy

Efficacy

Efficacy

Efficacy

Efficacy

Giảm nhăn áp trong những thử nghiệm (%)

27-35

18-26

27-35

= 23

20-27

Biến cố bất lợi

Adverse events

Adverse events

Adverse events

Adverse events

Adverse events

Mắt
(Ocular)

Sung huyết kết mạc (conjunctival hyperemia), nóng, nhức mắt, khô mắt

Giống như timolol

Mống mắt có sắc tố (Iris pigmentation), rậm lông (hypertrichosis), lông mi đen, sung huyết kết mạc (conjunctival hyperemia), nhức nóng mắt, viêm giác mạc, mờ mắt, cảm giác có vật lạ trong mắt.

Nhức nóng mắt, tạm thời mờ mắt, ngúa mắt, sưng mi mắt, viêm kết mạc

Dị ứng, sung huyết kết mạc, mờ mắt, cảm giác có vật lạ trong mắt.

Toàn thân (Systemic)

Mạch đập chậm, rung tim, suy tim, co thắt phế quản với người bị bệnh suyễn hay bệnh nghẹt đường phổi kinh niên

Cũng tương tự như timolol nhưng nhẹ hơn

Không có báo cáo

Miệng đắng, sỏi trong thận (nephrolithiasis)

Khô miệng, mệt mỏi, nhức đầu

Sau khi bệnh nhân đă qua những thử nghiệm cần thiết và trị liệu bằng thuốc được áp dụng, phương thức chữa trị hiện tại được bắt đầu bằng thuốc nhỏ vào một con mắt (one eye therapy trial), và sau đó ba đến sáu tuần mắt sẽ được khám lại để đo lường độ hiệu nghiệm. Độ hiệu nghiệm được xác định bằng cách so sánh sự khác biệt của IOP trong hai con mắt, và từ kết quả đó, thuốc dùng sẽ được chọn lựa và sẽ được áp dụng cho cả hai mắt.

Thí dụ như nếu mắt phải (OD) IOP là 30 mm Hg, mắt trái (OS) là 33 mm Hg, trước khi thuốc bắt đầu, sau khi nhỏ thuốc vào mắt phải, IOP của cả hai mắt đều xuống, mắt phải (OD) nay là 20 mm Hg và mắt trái OS 23 mm Hg th́ như vậy là thuốc không có hiệu quả. Nếu kết quả cho thấy sau khi trị liệu mắt phải (OD) bởi thuốc nay IOP của OD là 25 mm Hg và OS là 34 mm Hg, th́ thuốc này có hiệu quả.

1. Beta-Adrenergic blocking agents

Beta-Blockers (levobunolol hay timolol 0.25% -0.5% q.i.d. hay b.i.d.; metipranolol 0.3% ; hay carteolol 1% b.i.d.

Thuốc beta blockers dùng tại chỗ được coi là thuốc dẫn đầu trong cách chữa trị bệnh tăng nhăn áp từ thuở thuốc này có mặt trên thị trường vào khoảng giữa thập niên 1970. (3) Thuốc này có hiệu nghiệm tốt, dung nạp trong mắt đáng kể và rất tiện lợi trong việc dùng thuốc với liều thường chỉ dùng hai lần một ngày, so sánh với những loại thuốc khác (8). Cho đến ngay gần đây thuốc loại này vẫn c̣n được coi là thuốc lựa chọn đầu tiên để trị bệnh tăng nhăn áp.

Timolol, levobunolol, carteolol và metipranolol thuộc nhóm không chuyên biệt beta-blockers (noncardioselective beta 1 and beta 2), betaxolol thuộc cardioselective (beta 1). Cơ chế tác dụng chưa được xác định rơ, nhưng hầu như được coi là làm áp chế hay giảm bớt sự sản xuất thủy dịch.

Betaxolol được dùng rất thông dụng với những bệnh nhân bị bệnh nhăn áp cao, đă được giải phẫu bằng argon laser trabeculoplasty (ALT) và cần được trị liệu bệnh áp huyết cao.

Thuốc thuộc nhóm này nếu những bệnh nhân nào có bệnh suyễn, bệnh nghẹt kinh niên đường phổi (chronic obstructive pulmonary disease-COPD), bệnh nhịp tim chậm do xoang tâm nhĩ  (sinus bradycardia), bệnh tim  nghẹt (heart block) mực độ 2 hay 3, bệnh suy tim (congestive heart failure), đột trụy từ tim (cardiogenic shock), trầm cảm (depression), chứng nhược cơ năng (myasthenia gravis), hay bị nhạy cảm với thuốc th́ không nên dùng (6). Những người mắc bệnh tiểu đường khi dùng thuốc loại này cần phải cẩn thận hơn khi đo độ nhạy của lượng đường trong máu v́ thuốc có khuynh hướng làm giảm độ nhạy đối với những triệu chứng của lượng đường trong máu thấp.

Nếu đơn thuốc trị liệu với beta-blocker không thích hợp v́ chống chỉ định, hay không có hiệu nghiệm làm giảm áp suất trong mắt (IOP), hay v́ có nhiều phản ứng bất lợi, th́ những thuốc thuộc loại khác có thể được dùng.

2. Adrenergic agonists (sympathomimetics)

Non-selective adrenergic agonists

Epinephrine, một chất có tác dụng trực tiếp như thần kinh giao cảm trên cửa nhận alpha và beta. Những thuốc bôi sẽ làm co mạch, tản máu trong kết mạc (conjunctival decongestion), làm mở con ngươi (giăn đồng tử/mydriasis), và làm tăng áp suất trong máu. Thuốc Epinephrine, dược dung dịch từ  0.5% đến 2%, dùng hai lần một ngày.

Dipiveprine (dipivefrin) (Propine/R), 0.l %, b.i.d. là một prodrug của epinephrine. Thuốc dùng để trị bệnh cao nhăn áp góc mở.

Thuốc thuộc nhóm này có nhiều phản ứng phụ về tim mạch như nhịp tim nhanh, loạn nhịp tim, và tăng áp huyết, về tại chỗ như bỏng, đốt nhói, châm chích kết mạc cùng một số phản ứng phụ khác.

Alpha 2-Adrenergic agonists

Thuốc chuyên biệt alpha 2 adrenergic agonists bắt đầu có mặt trên thị trường trong thập niên 1990.

Brimonidine (Alphagan/R) 0.2% t.i.d., (hay dùng b.i.d nếu dùng tiếp hợp với thuốc nhóm beta-blocker) được dùng nếu phải trị liệu lâu dài. V́ tác dụng của brimonidine ngắn hạn hơn timolol, nên nếu muốn duy tŕ tác dụng áp huyết thấp, và nếu dùng như đơn thuốc trị liệu th́ phải được dùng ba lần một ngày.

Thuốc này không nên cho bệnh nhân đang dùng monoamine oxidase (MAO) inhibitors v́ có thể tạo nên cơn biến cao áp huyết (hypertensive crisis). Phản ứng phụ là dị ứng, khô mồm, khô mắt, ngủ lịm (lethargy), giăn đồng tử (mydriasis), và làm giảm áp huyết (3,4).

Apraclonidine (Iopidine/R), 0.5% t.i.d. chỉ được dùng khi trị liệu ngắn hạn (cỡ ba tháng), thuốc này mau mất hiệu nghiệm và tương đối hay làm bệnh nhân bị dị ứng (3,4).

3. Carbonic-Anhydrase Inhibitors (CAIs)

Những thuốc qua đường tuần hoàn thuộc nhóm này rất có hiệu nghiệm làm giảm IOP nhưng không thể dùng trong một thời gian lâu dài được v́ những phản ứng phụ rất đáng kể (3).

Methazolamide, 25 mg đến 50mg uống hai, ba lần một ngày; acetazolamide, 125 mg đến 250mg uống 2 đến 4 lần một ngày hay acetazolamide sequel 500mg uống ngày hai lần. Những bệnh nhân bị dị ứng với sulfa và có tiểu sử bệnh lư có sạn trong thận không uống thuốc thuộc nhóm này được.

Những thuốc dùng tại chỗ mới có mặt gần đây trên thị trường gồm dorzolamide và brinzolamide. Thuốc này cũng có thể được dùng tiếp hợp với beta-blocker.

Dorzolamide (Trusopt/R) 2% solution dùng ngày ba lần (t.i.d.), và Brinzolamide 1% solution dùng ngày hai lần (b.i.d.) có hiệu nghiệm tương tự nhưng so với  timolol th́ không hiệu nghiệm bằng để làm giảm IOP.

Dorzolamide được hấp thụ vào đường tuần hoàn sau khi nhỏ vào mắt, và được loại ra khỏi cơ thể qua đường thận. Nếu bệnh nhân có creatinine clearance thấp hơn 30 milliliter/minute th́ không nên dùng thuốc này. Dorzolamide c̣n có một phản ứng phụ đáng kể là làm khoảng 25% số bệnh nhân trị với thuốc này có vị giác đắng tạm thời trong một thử nghiệm thống kê và trong một thử nghiệm lớn khác 14.7% số bệnh nhân than phiền là đắng miệng (4). Dorzolamide có thể gây nên sạn trong thận, có ba trường hợp có sạn trong thận đă được tường tŕnh sau khi bệnh nhân dùng thuốc này.

Nói chung CAIs có những phản ứng phụ trong mắt như nhói, châm chích, rát bỏng, thị lực lờ mờ, ngứa mắt, sưng mí mắt, và viêm kết mạc (conjunctivitis).

4. Prostaglandin analogues

Chất prostagladin tự nhiên t́m thấy ở trong mắt đă được nhận biết là làm giảm áp suất ở trong mắt. Latanoprost, (Xalatan/R), 0.005% qhs, thường được dùng kèm, phụ tiếp để làm giảm thêm IOP. Latanoprost là một điều chế dẫn xuất làm giảm được áp suất trong mắt và là thuốc hiện nay dùng để trị bệnh nhăn áp cao mà có thể so sánh với timolol trên phương diện có hiệu lực và dung nạp (4). Một đặc điểm của latanoprost là làm giảm áp suất trong mắt cả ngày lẫn đêm, trong khi timolol chỉ có hiệu nghiệm vào ban ngày (9).

Cơ chế tác dụng của latanoprost là làm tăng chảy thoát thủy dịch qua lớp mạc thể (uveoscleral outflow)

Latanoprost mặc dù dung thứ rất tốt nhưng thuốc này làm cho mống mắt bị đen và làm lông nheo mọc dài thêm và đen thêm. Hiện tượng này là do số lượng chất melamin trong tế bào hắc tố của mô đệm mống mắt (melanocytes of the iris stroma) được tổng hợp nhiều hơn (10). Nếu cả hai mắt đều dùng thuốc th́ sự đổi màu không rơ, nhưng nếu chỉ có một mắt được trị liệu th́ hiện tượng đen mống mắt thấy rất rơ.

Ngoài ra Latanoprost cũng có những phản ứng phụ như châm chích kết mạc (conjunctival injection), cảm giác nhói chích, phù thũng điểm vàng trong mắt/vơng mô (cystoid macular edema/CME). Những bệnh nhân bị viêm màng mạch nho (uveitis), CME, và phụ nữ đang thai nghén không được dùng thuốc này (4).

Một thuốc mới có mặt gần đây trên thị trường, Travoprost (Travatan/R) 0.004% solution 1 gtt OS/OD qpm được một số bác sĩ nhăn khoa chuyên môn coi như là thuốc tiên khởi để trị glaucoma, dùng riêng rẽ hay dùng chung với một beta-blocker, một vài kết quả thử nghiệm gần đây tường tŕnh rằng thuốc này có hiệu nghiệm trên bệnh nhân da đen hơn là những bệnh nhân có màu da khác (11).

5. Miotics

Những thuốc tác dụng trực tiếp thu hẹp đồng tử (miotics) là thuốc có tác dụng như thần kinh đối giao cảm (parasympathomimetic), nó sao lập lại tác dụng muscarinic của acetylcholine nhưng không có tác dụng nicotinic. Thuốc này khi nhỏ/bôi vào mắt sẽ làm thu con ngươi lại, kích thích cơ mi (ciliary muscles) và giúp gia tăng sự luân chuyển thủy dịch. Với sự gia tăng luân chuyển thủy dịch, áp suất trong máu sẽ giảm bớt. Nhóm miotics này ngoài pilocarpine và carbachol, c̣n có acetylcholine nhưng chất này chỉ được dùng để tạo nên đồng tử thu nhỏ (miosis) khi giải phẫu (3).

Pilocarpine (q.i.d.) bắt đầu dùng từ thành phần thấp nhất (0.5-1.0%) và dần lên tới thuốc thành phần cao hơn (4%). Những bệnh nhân trên 40 tuổi thường không dung thứ chịu đựng được thuốc này v́ dễ bị co thắt phần điều tiết thấu kính mắt (accomodative spasm). Pilocarpine c̣n đặc chế dưới dạng chất keo tan được 4% gel để dùng ban đêm hay dùng như ocular insert thay mới hàng tuần.

Kết hợp trị liệu cho bệnh tăng áp nhăn

Tiếp cận trị liệu tối đa

Như đă nêu lên từ đầu, nếu trị liệu đơn không có hiệu nghiệm hay kết quả làm giảm IOP như mục tiêu đặt ra, hay nếu có sự thoái hóa tệ hơn nữa trong thị lực. Sử dụng hai hay hơn hai thứ thuốc trong loại hay nhóm khác nhau có thể mang lại hiệu quả và có thể không cần phải chữa trị bằng laser (ALT) hay giải phẫu (3,4). Thông thường mục tiêu là làm giảm IOP được nhiều hơn 15%. Những thuốc lư tưởng là những thuốc có những phương cách tác dụng khác nhau, hay tác dụng trên những diếu tố hay cửa nhận khác nhau. Khi dùng kết hợp trị liệu sự cân nhắc giữa các thuốc dùng cũng quan trong để giúp bệnh nhân hợp tác dùng thuốc cho có kết quả. Hiện nay chưa có một bảng hướng dẫn chính thức nào căn cứ trên nghiên cứu thử nghiệm để cho chúng ta biết kết hợp nào có kết quả tốt hơn (3,4).

Cách trị liệu thông thường nhất bắt đầu với một beta-blocker, rồi dần dần những thuốc khác được thêm vào nếu cần (12, 13). Thí dụ bắt đầu bằng một beta-blocker coi như thành công nhưng sau đó nếu muốn giảm IOP nữa th́ cần thêm vào một thuốc thuộc loại khác thuộc alpha 2 adrenergic agonist, một thuốc nhỏ CAI, hay một prostaglandin analogue tùy thuộc vào t́nh trạng của bệnh nhân và điều kiện lâm sàng liên hệ. Và sự dùng thêm thuốc thuộc loại khác cứ tiếp tục có thể lên tới năm loại khác nhau. Sự dùng nhiều thứ thuốc khác loại này trở nên rất phức tạp làm bệnh nhân có thể mất từ 30 phút đến 60 phút hai lần một ngày nếu dùng thuốc đúng cách và theo đúng trị liệu tối đa.

Sau đây là vài hỗn hợp trị liệu thường được Bác sĩ nhăn khoa cho nhiều nhất.

Beta-blocker (timolol) +ø miotic (pilocarpine)
Beta-blocker (timolol, hay betaxolol) +ø adrenergic agonist (epinephrine hay dipivefrine)
Beta-blocker + alpha-2 adrenergic agonist (brimonidone, apraclonidine)
Beta-blocker + prostaglandins (latanoprost)
Beta-blocker + carbonic anhydrase inhibitor  (dorzolamide, brinzolamide, acetazolamide hay methazolamide).

Hỗn hợp bốn loại gồm beta-blocker + prostaglandin + miotic + adrenergic agonist.

Hỗn hợp năm loại thuốc gồm beta-blocker (timolol, hay betaxolol) + miotic (pilocarpine) + CAI (methazolamide, dorzolamide hay brinzolamide)+ adrenergic agonist (brimonidine, apraclonidine) + prostaglandin (latanoprost)

Trị liệu mạng lọc thủy bằng laser

Argon Laser Trabeculoplasty (ALT)

Thông thường th́ sau khi dùng đủ loại hỗn hợp hay v́ bệnh nhân không thể chịu được dùng thuốc nhỏ mắt nhiều loại khác nhau, th́ bệnh nhân thường được đề nghị dùng laser chữa trị phần mạng bó dây. Phương pháp trị liệu ALT này sẽ làm chất thủy dịch thể thoát ra khỏi góc thoát dễ dàng hơn do đó làm giảm áp nhăn.

Phương pháp ALT cũng như phương pháp trị liệu bằng thuốc nhỏ mắt không làm khỏi được bệnh glaucoma. Tuy nhiên ALT làm giảm được áp nhăn (IOP) tốt và tránh cho bệnh nhân bị những phản ứng phụ của thuốc. Sau khi chữa trị bằng ALT, bệnh nhân có thể vẫn phải dùng thêm thuốc nhỏ mắt (thông thường nhất là betaxolol)

Giải phẫu mạng lọc thủy

Trabeculectomy (Glaucoma filtration surgery)

Mặc dù chữa trị bằng thuốc nhỏ mắt và laser rất thông dụng, nhưng phương pháp giải phẫu mạng lọc thủy vẫn rất thông dụng trên toàn thế giới. Phương pháp này được dùng sau khi thuốc và trị liệu bằng laser không có hiệu quả. Đây là phương pháp lấy bớt đi một phần mô nhỏ của thành phần ống Schlemm trong mạng lọc thủy (trabecular meshwork). Sự cắt bỏ này tạo nên một lỗ ṛ (fistula) cho phép thủy dịch thể  tụ lại thành một hố/túi  đựng giữa lớp củng mạc (slera-mô trắng bên ngoài nhăn cầu) và lớp kết mạc của mắt (conjunctival layer). Chất thủy dịch thoát ra này sau khi được chứa vào cái hố/túi sẽ được hấp thụ trở lại vào máu.

Thuốc dùng trong khi và hậu giải phẫu để tránh sự đóng khép lại của nơi vừa được giải phẫu có thể là Mitocin C hay 5-Fluorouacil (14).

References

1  The Glaucoma Foundation. About Glaucoma. www.glaucomafoundation.org/

Thylefors B, Negrel AD. The global inpact of glaucoma. Bull World Health Organ 1994; 72(3):323-6.

2  American Academy of Ophthalmology. Preferred Practice Pattern Committee: Committee Glaucoma Panel. Primary open-angle glaucoma. Preferred practice pattern. 1996; 1-28.

3  Hoyng PFG, Van Beek LM. Pharmacological therapy for glaucoma. A review. Drug 2000 Mar;59:411-34.

4  Camras CB, Toris CB,Tamesis RR. Efficacy and adverse effects of medications used in the treatment of glaucoma. Drug Aging 1999 Nov: 15 (5):377-88.

5  Facts about glaucoma. http://www.nei.nih.gov/health/glaucoma/glaucoma_facts.htm

6  Rhee DJ, Pyfer MF. Friedberg MA, et al. The Wills Eye Manual. Lippincott Williams & Wilkins. 3rd ed 1999.

British National Formulary. No 40. London: The Pharmaceutical Press, 2000 Sep: 485-90.

8  Brooks AMV,Giles WE. Ocular beta-blockers in glaucoma management. Drug Aging. 1992;2:208-221.

9  Mishima HK, Kiuchi Y, TaKamatsu M, et al. Circadian intraocular pressure management with latanporost:diurnal and nocturnal intraocular pressure reduction and increased uveoscleral outflow. Surv Opthalmol 1997;41 Suppl.2:S 139-44.

10  Linden C, Alm A. Prostaglandin analogues in the treatment of glaucoma. Drug Aging 1999 May;14 (5):- 98.

11  Netland PA, Landry T, Sullivan EK, et al. Travoprost compared with latanoprost and timolol in patients with open-angle glaucoma or ocular hypertension. Am J Othamol 2001 Oct; 132 (4):- 84.

12  Robin AL. Ocular hypotension efficacy and safty of a combined formulation of betaxolol and pilocarpine. Trans Am Ophthalmol Soc. 1996;94:89-103.

13  Zimmerman TJ, Fechtner RD. Maximal medical therapy for glaucoma. Arch Ophthalmol. 1997;115:1579-80.

14  Madhavan HN, Rao SB, Vijay L, et al. In vitro sensitivity of human Tenon’s capsule fibroblast to mitocin C and its correlation with outcome of glaucoma filtration surgery. Opthalmic Surg. 1995; 26: 61-67.

Home | Literature | Poetry | Science | Great Places | Music and Other | Comments

Copyright © 2004-2005 Giang Nguyen Trinh All Rights Reserved

This site is continually updated.