Iron Deficiency, Nutritional Value of Fiber, and Cough Treatment


Iron Deficiency, Nutritional Value of Fiber, and Cough Treatment

Giang Nguyễn Trịnh, R.Ph, D.Ph.

Trang này gồm có ba bài biên khảo hữu ích. Xin click vào mỗi tựa bài.

1.  Thuốc Chứa Chất Sắt
2.  Thực Phẩm Chứa Chất Sơ Cùng Vấn Đề Sức Khoẻ
3.  Bệnh Ho

Thuốc Chứa Chất Sắt

Trường Hợp Nào Nên Dùng Sắt Phụ Trợ

Sắt là yếu tố quan trọng cho sự chuyên trở đưỡng khí và điều hoà hệ thống diếu tố (enzymes) của cơ thể. Bệnh thiếu máu v́ thiếu chất sắt có thể gây nên nhiều xáo trộn cho cơ thể và có thể là cơ nguyên cho nhiều trạng thái bệnh lư khác nhau.

1.    Cơ nguyên cho bệnh thiếu máu v́ thiếu chất sắt (Iron-deficiency anemia)

Những người ăn uống không đúng cách, ăn thiếu, ăn ít chất thịt, những người ăn trường chay.

Những người bị bệnh phải uống những loại thuốc có thể làm cho bị chảy máu trong đường tiêu hóa.

Phụ nữ khi có kinh bị xuất huyết dầm dề kéo dài hơn ba bốn ngày.

Phụ nữ đang trong thời kỳ mang thai.

Trẻ sơ sinh và trẻ em thanh thiếu niên cần chất bổ dưỡng trong thời kỳ cơ thể phát triển.

2.    Chẩn đoán bệnh lư

Triệu chứng thông thường là cảm thấy yếu đuối và mệt mỏi. Nước da xanh xao, tái mét, móng tay bị chẻ hay có h́nh dạng cái muỗng, lưỡi bị dát lở (sore tongue), viêm miệng (stomatitis), khó thở, bải hoải, lạnh và tê cóng tay chân.

Những triệu chứng đề cập ở trên chỉ là những triệu chứng thông thường­ nhận định. Xác định bệnh lư rơ rệt cần phải qua thử nghiệm về máu và xác nhận bởi Bác sĩ trước khi điều trị.

3.    Sản phẩm chứa sắt bán ngoài quầy (không cần toa Bác sĩ)

Hầu hết sản phẩm chứa sắt bán ngoài quầy đều chứa ferrous iron (Fe++) v́ nó dễ­ hấp thụ hơn loại ferric iron (Fe+++). Lượng chất sắt căn bản (elemental iron) cũng thay đổi trong các loại muối khác nhau như sau:

Ferrous fumarate         33%
Ferrous gluconate         12%
Ferrous sulfate              20%

Số lượng sắt căn bản cần thiết cho cơ thể tuỳ thuộc độ thiếu sắt, khả năng hấp thụ và dung nạp được của cơ thể.

Sản phẩm chứa sắt bán ngoài quầy gồm có thuốc viên (tablet), thuốc con nhộng (capsule), thuốc nước, thuốc viên có lớp bao che chở (enteric coated) và loại thuốc tan từ từ có tác dụng kéo dài (delayed-released).

Chất sắt tiên khởi được hấp thụ ở đoạn trên của ruột non (thập nhị chỉ tràng: duodenum) và khúc đầu của ruột non (jejunum) cho nên thuốc viên (tablet) được hấp thụ nhiều hơn loại thuốc tan chậm.

Loại thuốc được dùng nhiều nhất và rẻ nhất là loại ferrous sulfate, thường nên uống trước khi ăn để tăng lượng sắt được hấp thụ, tuy nhiên nhiều khi nên uống thuốc khi ăn để tránh cồn cào ruột.

4.    Phản ứng bất lợi của thuốc (Adverse effects)

Táo bón hay đi tiêu phân hơi lỏng có mầu nâu sậm, mầu nâu sậm là do phản ứng hóa học thông thường của sắt không có ǵ đáng ngại.

Ói mửa đôi khi xẩy ra.

Thuốc nước có thể gây nên nóng bao tử (heart-burn) và tạm thời nhuộm răng vàng nâu.

5.     Độc tính của thuốc (Toxicity)

Khi đi cầu phân có mầu nâu cộng thêm bị đau bụng, quặn ruột, đau cổ và ngực khi nuốt.

Nóng sốt, ói ra máu.

Mạch yếu, tim đập mạnh, mệt mỏi bất thường, môi tím, ngón tay tím.

Tất cả những triệu chứng ở trên có thể xẩy ra sau một thời gian dài hấp thụ nhiều sản phẩm chứa sắt. Nếu xẩy ra nên đi khám Bác sĩ ngay.

6.     Tương tác của thuốc (Drug interactions)

Tương tác của thuốc chứa sắt với những thuốc khác hầu hết do sự thành lập một hỗn tạp của sắt với một thuốc khác.

Sự hiện diện của thuốc khác cũng có thể làm tŕ hoăn sự thoái hóa lượng sắt hấp thụ kết quả là làm thặng dư lượng sắt dự trữ trong cơ thể.

Tương tác của thuốc có thể tránh được bằng cách uống thuốc cách xa nhau ra cỡ hai tới ba giờ đồng hồ.

Lượng thuốc b́nh thường cho người lớn từ 100-200mg chất sắt căn bản (2-3mg/kg cân nặng) uống cỡ 4 đến 6 tháng cho những người bị thiếu máu v́ thiếu sắt và không có bị những triệu chứng phức tạp khác.

7.     Kỵ thuốc (Contraindications)

Không phải ai cũng có thể uống thuốc trợ sắt cho cơ thể: những người không biết lư do tại sao ói ra máu, phân có màu nâu đậm, nước tiểu vẩn đục hay có mầu hồng, những người có bệnh bẩm sinh không hấp thụ được chất sắt, những người uống rượu, có bệnh đường ruột, những người mắc bệnh gan, bệnh thận, vân vân... nên đi khám Bác Sĩ để được chẩn bệnh kỹ lưỡng và để giới chuyên môn xác định bệnh trước khi muốn thử tự uống thuốc trợ sắt.

Tài liệu tham khảo

1.     Anon : Iron supplements.In: UDP DI 1994

2.     Hansen CM: Oral iron supplements Am. Pharm. 1994

3.     Anon : Iron-containing Products, Drug Facts and Comparisons

4.     US Pharmacist 1995

Xin click:

1.  Thuốc Chứa Chất Sắt
3.  Bệnh Ho

Thực Phẩm Chứa Chất Sơ Cùng Vấn Đề Sức Khoẻ

Một trong những vấn đề mà mọi người đều quan tâm đến trong hiện đại là cố gắng giữ ǵn sức khoẻ cho có một cơ thể lành mạnh qua thể thao và ẩm thực. Thức ăn chứa nhiều chất sơ nói chung để chỉ định số lượng chất liệu c̣n lại trong thực phẩm không được tiêu hóa bởi cơ thể. Chất sơ, hầu hết từ thành tế bào của rau, cây, chống lại được sự tiêu hóa của diếu tố dinh dưỡng trong cơ thể. Chất sơ thực phẩm (dietary fiber) có giá trị trong dinh dưỡng và hữu ích trong việc pḥng ngừa và chữa trị một vài giai đọan của bệnh.

Thành phần của chất sơ thực phẩm

Chất sơ thực phẩm gồm hai thành phần, một phần tan trong nước và một phần không tan trong nước. Phần tan trong nước của chất sơ có trong lúa kiều mạch (oats), hầu hết các loại rau, táo và trái cây thuộc họ chanh (cam, táo, bưởi, quưt...). Phần không tan t́m thấy trong lúa ḿ (wheat) và trong bánh ḿ chứa nguyên hột (whole grain bread) và thức ăn sáng khô chứa ngũ cốc (cereals).

Thành phần chính của chất sơ thực phẩm gồm cellulose, non-cellulose polysaccharides và lignin.

Cellulose là thành phần không tan trong nước chứa trong cơ cấu của hầu hết mọi loại vách của cây cỏ (plant cell walls). Cellulose là trùng hợp của glucose nhưng chứa nối beta do đó cơ thể không thể phá huỷ được.

Noncellulose polysaccharides gồm hemicellulose, pectins, gums, mucilages và chất algal.

Lignin tạo nên phần sơ, giai của cây cỏ, lignin không tan trong nước, có khả năng lôi cuốn và gắn tụ những liệu chất như cholesterol và acid mật giúp sự đào thải những chất này ra khỏi cơ thể.

Hầu hết những chất sơ thực phẩm c̣n giữ nguyên khi đi tới ruột già nơi mà vi khuẩn ruột già giúp sự lên men những chất sơ này và biến đổi một phần thành acid béo dây ngắn (short chain fatty acids), methane, hơi hydrogen và nước.

Sụ liên quan giữa ăn thực phẩm chứa nhiều chất sơ và sức khỏe

1.     Sự liên quan giữa ăn nhiều trái cây và rau để pḥng ngừa bệnh ung thư đă được đề cập đến và khuyến khích bởi Hàn Lâm Viện Khoa Học Quốc Gia (The National Academy of Science). Viện này thiết lập một tiêu chuẩn sức khoẻ và ẩm thực nhấn mạnh điểm người dân nên ăn nhiều cá, thịt gà bỏ da, thịt nạc, uống sữa chứa ít hoặc không chứa chất béo, nên ăn nhiều rau, trái cây và bánh ḿ và cereals. Ăn nhiều rau và thực phẩm chứa nhiều chất sơ qua nhiều bản tường tŕnh đều cho rằng có thể làm giảm thiểu được những nguy hiểm của bệnh ung thư ruột già.

2.   Sự tiêu thụ thực phẩm chứa nhiều chất sơ đă được xác nhận qua nhiều bản tường tŕnh là có khả năng làm biến đổi lượng lipid trong máu.

Cơ chế làm giảm lượng cholesterol trong máu có thể tóm tắt như sau:

Chất sơ gắn liền với acid mật trong máu; lượng acid mật này cung cấp bởi cholesterol, khi đă bị gắn với chất sơ sẽ bị đào thải.

- Sự lên men của phần chất sơ tan trong nước bởi vi trùng trong ruột già biến đổi những chất này thành acid béo dây ngắn, chất này có thể ngăn cản sự sản xuất cholesterol.

- Gia tăng sự thoái hoá chất cholesterol xấu (low density lipoprotein-cholesterol/LDL)

Thực phẩm chứa nhiều chất sơ tan được trong nước có hiệu nghiệm trong sự giảm lượng cholesterol hơn thực phẩm chứa chất sơ không tan trong nước.

Đậu nành và sản phẩm kiều mạch (oat bran) có tác dụng hiệu nghiệm nhất trên sự giảm thiểu lượng cholesterol trong máu v́ nó chứa hỗn hợp chất sơ tan và không tan trong nước.

3.    Bệnh động mạch tim (Coronary heart disease)

Thực phẩm chứa nhiều chất sơ làm giảm thiểu hiểm họa liên quan đến bệnh động mạch tim. Giả thuyết đă được đặt ra là có lẽ chất sơ thực phẩm có tác dụng trên tiến triển của đông máu và ly giải máu (fibrinolysis) trong những trường hợp máu đóng cục trong động mạch.

4.    Bệnh đi tiểu đường (Diabetes). Chất sơ thực phẩm có thể làm hoàn tăng sự kiểm soát chất đường, gia tăng sự nhậy cảm với insulin, giảm bớt chất béo trong máu, giảm áp huyết, và có thể giúp sự xuống cân.

5.    Bệnh mập ph́ (Obesity).Những người bị mập ph́ v́ ăn quá nhiều chất béo, đồ ngọt, và ít chất sơ, nếu chịu khó thay đổi lối ăn dùng nhiều trái cây, rau, sữa không chất béo, ngũ cốc có thể sẽ trở nên khoẻ mạnh hơn, và xuống được cân.

6.    Bệnh đường ruột (Gastrointestinal disorder)

Thực phẩm chứa nhiều chất sơ có nhiều tác dụng tốt trên đường ruột. Chất sơ duy tŕ sự b́nh thường chuyển động của ruột và giúp sự bài tiết chất cặn bă ra khỏi cơ thể một cách đều đặn. Thức ăn chứa nhiều chất sơ tan trong nước làm chậm sự làm trống bao tử (gastric emptying). Thức ăn chứa nhiều chất sơ không tan trong nước có tác dụng như thuốc sổ nhẹ, làm tăng sự luân chuyển của thực phẩm qua ruột, tăng số lượng chất bài tiết và giảm bớt áp xuất của dạ dày và ruột. Chất sơ đă được dùng trong nhiều dược phẩm bán ngoài quầy để trị táo bón.

Một thực đơn chứa rất nhiều chất sơ từ lâu đă được coi là có thể trị được hội chứng kích thích ruột (irritable bowel syndrome). Tuy nhiên gần đây có nhiều ư kiến trái ngược cho rằng chất sơ có thể là điều kiện làm bệnh này trở nên tệ hại hơn.

Sau đây là bản sắp loại và vài nguồn cung cấp chất sơ trong thực phẩm:

 Loại chất sơ

 Độ tan trong nước

 Vị trí trên cây

 Nguồn thực phẩm

  Cellulose

  Không tan

 Thành tế bào. Bột lúa ḿ (cơ cấu)

  Bran Táo, peas, beans, B¡p cải, R­ các loại rau

  Hemicellulose

  Cả hai

  Thành tế bào Bran (chất liệu)

  Cereals, Whole grains

  Pectin

  Tan

  Trong tế bào (chất liệu keo)

  Táo, Trái cây họ chanh, Dâu

  Gums

  Tan

  Tế bào bài tiết Oatmeal

  Đậu khô, Các loại rau

  Lignin

  Không tan

  Phần gỗ của cây

  Rau già, Lúa ḿ

Bộ Nông Nghiệp của Liên Bang Hoa Kỳ đưa ra một bảng chỉ dẫn và khuyến khích dân chúng nên có một lối ăn uống lành mạnh, điểm chính tóm lược:

Một người lớn khoẻ mạnh nên tiêu thụ hàng ngày một số thức ăn có chứa một số lượng carbohydrate, ít chất béo chứa tất cả cỡ 20 tới 35 g chất sơ. Sản phẩm của sữa (2-3 phần); thịt, các loại beans, nuts (2-3 phần); rau (3-5 phần); trái cây (2-4 phần); các loại lúa, bánh ḿ (6-11 phần).

Để kết luận, muốn có một cơ thể lành mạnh chúng ta phải theo một thực đơn tiêu thụ hàng ngày một số lượng thực phẩm chứa chất sơ (20-35g), một hỗn hợp carbohydrates và tiêu thụ ít chất béo. Điều này khó hay không khó là tùy ở ḷng kiên tŕ, tự kỷ luật của từng cá nhân, xin quư bạn nên thử áp dụng trên bản thân.


Xin click:

1.  Thuốc Chứa Chất Sắt
2.  Thực Phẩm Chứa Chất Sơ Cùng Vấn Đề Sức Khoẻ

Bệnh Ho

Những người khỏe mạnh rất ít ho. Ho không phải là hiện tượng b́nh thường mặc dầu nó là một phản xạ để bảo vệ cơ thể giúp khí quản loại đi những phân tiết quá nhiều và các vật nhỏ được hít vào bộ hô hấp; thường thường, các phân tiết được các lông nhỏ trên màng nhầy cuống phổi đưa ngược lên và được nuốt lại vào bao tử.

Ho là một triệu-chứng rất thông thường. Sự thịnh hành của chứng ho kinh niên đối với người lớn không hút thuốc lá từ 14 đến 23%. Một cuộc nghiên cứu cho thấy rằng trong mùa đông phần lớn số người đi khám Bác sĩ là do chứng ho. Ho kinh niên là nguyên nhân thứ năm của những cuộc khám ngoại chẩn và ghi nhận tới mức 30 triệu lần đi khám bệnh mỗi năm.

Người bệnh thường đi khám v́ nhiều lư do như mệt v́ ho quá nhiều làm mất ngủ, ảnh hưởng tới đời sống trong xă hội, sợ bị ung thư, sợ bị lao phổi hoặc bị bệnh AIDS.

Phản xạ ho

Phản xạ ho và những yếu tố gây nên ho có thể giải thích như sau.

Ở trong mũi, yết hầu, thanh quản, khí quản và cuống phổi lớn cho tới cuống phổi nhỏ có những thụ thể ho (cough receptors), ngoài ra c̣n có một số tiếp nhận khác trong các xoang cạnh mũi, màng phổi, hoành cách mô, trong lỗ tai và màng nhĩ. Sự kích thích các thụ thể đó không những gây nên cơn ho mà c̣n làm co cuống phổi, co thanh quản, làm khó thở và gia tăng các phân tiết. Sự tiếp nhận ở các thụ thể trong mũi làm hắt hơi (nhảy mũi). Những thay đổi về cơ chế hóa học, nhiệt độ và thẩm thấu cũng có thể làm kích thích những nơi tiếp nhận trên.

Sự kích thích những thụ thể ho gây nên những động lực thâu nhận (afferent impulses) đi theo giây thần kinh đầu (cranial nerves) số IX và số X vào năo tủy (medulla). Những động lực đó có thể theo giây thần kinh số V, giây thần kinh thuộc hoành cách mô (phrenic nerve) và giây thần kinh thanh quản phía trên (superior laryngeal nerve) đến trung tâm ho trung ương nằm gần trung tâm hô hấp trong cuống năo (brain stem). Sự tiếp giây thần kinh từ vỏ năo tới trung tâm hô hấp cho phép thay đổi phản xạ ho. Những động lực phát xuất (efferent impulses) được đưa từ cuống năo xuống cơ quan tác dụng (effectors) bằng giây thần kinh số X (vagus), giây thần kinh thuộc hoành cách mô, giây thần kinh giữa xương sườn, giây thần kinh số V, giây thần kinh mặt, giây thần kinh dưới lưỡi (hypoglossal nerve), và những giây thần kinh phụ thuộc. Những động lực đó phối hợp các bắp thịt trong thanh quản, khí quản, cuống phổi, hoành cách mô, giữa xương sườn, vách bụng và các bắp thịt hô hấp phụ thuộc tạo nên ho.

Nguyên nhân

Chứng ho kéo dài dưới ba tuần là ho cấp tính. Nó thường là triệu-chứng của một bệnh viêm như cảm, thanh quản viêm, khí quản viêm, sưng cuống phổi và sưng phổi. Ho kinh niên thường kéo dài trên ba tuần.

Đối với những ngưới hút thuốc, nguyên nhân ho thông thường nhất là do khói thuốc lá. Hai mươi lăm phần trăm những người hút nửa bao một ngày thường bị ho, 50% những người hút một bao mỗi ngày thường bị ho và gần như 100% những người hút 2 bao mỗi ngày bị ho kinh niên. Những người ho v́ hút thuốc ít khi đi khám bệnh, họ chỉ tới Bác-sĩ khi chứng ho thay đổi và những trường hợp đó đ̣i hỏi khám kỹ càng.

Đối với những người không hút thuốc, nguyên nhân ho thông thường nhất là v́ nước từ mũi chảy xuống cuống họng. Ho thường xảy ra khi người bệnh cảm thấy có ǵ nhiễu xuống cuống họng, cần luôn luôn làm thông họng và bị chảy nước mũi thường xuyên. Ho thường là kết quả của xoang viêm kinh niên, viêm mũi kinh niên v́ dị ứng (chronic sinusitis, chronic allergic rhinitis).

Một nguyên nhân khác nữa ho là do bệnh hen suyễn. Đôi khi ho là triệu chứng duy nhất của bệnh suyễn. Với những bệnh nhân bị hen suyễn, cơn ho có thể được gây nên bởi những chất kích thích như mùi, khói thuốc lá, hơi lạnh và không khí khô. Ho sau khi bị nhiễm trùng cơ quan hô hấp phía trên có thể kéo dài từ sáu tới tám tuần.

Ngoài ra, với những người không hút thuốc, ho có thể là do sự lưu hồi chất chua từ bao tử lên thực quản.

Cơ chế

Cơ chế gây ho có thể do:

1.  Chất acit từ bao tử chạy ngược lên có thể làm tổn thương màng nhày thực quản và gây nên cơn ho bằng cách kích thích giây thần kinh số X. Chất acit không phải là chất duy nhất gây nên cơn ho, các diếu tố giải protein (proteolytic enzymes) như pepsin và trypsin cũng có thể gây nên cơn ho.

2.  Chất lỏng trong bao tử trở lên yết hầu và thanh quản, kích thích các nơi tiếp nhận ho tại vùng này và gây nên cơn ho.

3.  Sự thấm hút các chất từ bao tử vào trong khí quản và cuống phổi gây nên cơn ho.

Môt cơn ho bất thường có thể do:

Các nơi tiếp nhận ho bị kích thích trực tiếp bởi những phân tiết trong khí quản và những vật từ ngoài và bướu trong cuống phổi.

Sự gia tăng mẫn cảm của các nơi tiếp nhận ho đưa tới cơn ho liên tục và sự giảm sút thềm của ho (cough threshold) v́ nhiễm trùng do vi khuẩn, do dược phẩm, v́ sự lưu hồi chất chua từ bao tử lên thực quản và ho v́ suyễn.

Nói tóm lại, ho kinh niên đối với người không hút thuốc và có h́nh phổi b́nh thường có thể do nước mũi chảy xuống cuống họng, do bệnh hen suyễn hoặc do bệnh chất acit từ bao tử lưu hồi lên thực quản hoặc sự phối hợp của cả ba nguyên nhân gây nên trong 99% các trường hợp. Những nguyên nhân hiếm hơn là do sự kích thích những nơi tiếp nhận trong màng phổi, màng tim, trong lỗ tai có nhiều dáy tai, những nguyên nhân tâm lư, v́ bệnh nở cuống phổi (bronchiectasis), v́ dược-phẩm, v́ suy tâm thất trái hoặc bệnh phổi (như sarcoidosis), sưng phổi hoặc ung thư phổi. Gần đây bệnh ho gà của người lớn (adult pertussis or whooping cough) là một nguyên nhân gây nên ho kinh niên thông thường ít khi được phát giác.

Điều trị

1.  Ho do nước từ mũi chảy xuống cuống họng: Bác sĩ thường dùng phối hợp thuốc làm giảm sự sưng và thuốc kháng histamine (combination decongestant-antihiatamine). Nếu người bệnh buồn ngủ v́ thuốc th́ có loại kháng histamine không làm buồn ngủ như loratadine (Claritin) và fexofenadine (Allegra) cùng với pseudoephedrine (Sudafed). Nếu người bệnh bị mất ngủ hoăc bứt rứt hoặc khó tiểu tiện, th́ người bệnh được khuyên ngưng dùng pseudoephedrine và dùng loại thuốc steroid bơm vào mũi trong ban ngày. Thuốc ipatropium bơm mũi (Atrovent) dùng khi bị viêm mũi v́ nở mạch quản (vasomotor rhinitis) và cromolyn bơm mũi được dùng trong bệnh viêm mũi v́ dị ứng.

2.  Ho v́ chất acit từ bao tử lưu hồi lên thực quản: Bác sĩ thường dùng phương pháp tiết chế ẩm thực cũng như dùng thuốc. Ăn những thực phẩm nhiều protein và ít chất béo không quá ngày 3 lần. Tránh dùng những đồ ăn thức uốnglàm răn cơ khoanh phía dưới thực quản (lower esophageal sphincter) như caffeine, các hạt dẻ, chocolate; tránh ăn từ 2 tới 3 giờ trước khi đi ngủ và kê cao đầu giường lên. Những thuốc kháng histamine-2 như cimetidine (Tagamet), ranitidine (Zantac), nizatidine (Axid) và famotidine (Pepcid) cũng thường được dùng.

3.   Ho v́ hen suyễn: dùng thuốc loại chủ vận Beta (Beta-agonist). Thuốc này rất công hiệu để trị ho kinh niên do suyễn khi được dùng dưới h́nh thức thuốc hít đo từng liều (metered dose inhaler). Đôi khi phải dùng thuốc viên nếu thuốc hít gây nên cơn ho. Thuốc hít có steroid, cromolyn sodium và nedocromil cũng hữu hiệu trong sự điều trị bệnh hen suyễn và có tác dụng làm quân b́nh khí quản dễ bị kích thích.

Thuốc trị ho

Trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại thuốc trị ho. Những thuốc này có tác dụng làm tê nơi tiếp nhận ho ngoại biên hoặc tăng thềm của trung tâm ho (threshold of cough center).

Benzonate (Tessalon perles) chận cơn ho v́ tác dụng trên những nơi tiếp nhận làm dăn(stretch receptors) trong phổi. Dextromethorphan là thuốc công hiệu nhất trên trung tâm ho không có ma túy. Nó có hoạt tính làm êm dịu và giảm đau nhẹ và là thành phần trong 75% thuốc ho trên nước Mỹ. Codeine là thuốc có hoạt tính trên trung tâm ho. và các hóa chất như hydrocodone và oxycodone là những thuốc ho rất công hiệu nhưng chúng có tính cách làm nghiện và làm buồn ngủ nên phải cẩn thận khi dùng.


Xin click:

1.  Thuốc Chứa Chất Sắt
2.  Thực Phẩm Chứa Chất Sơ Cùng Vấn Đề Sức Khoẻ
3.  Bệnh Ho



Home | Literature | Poetry | Science | Great Places | Music and Other | Comments

Copyright © 2004-2005 Giang Nguyen Trinh All Rights Reserved

This site is continually updated.