Bệnh Sỏi ThậnNephrolithiasis - Kidney StonesCường Trịnh, M.D. and Giang Nguyễn Trịnh, R.Ph, D.Ph. Kidney stones result from the precipitation of certain substances within the urine. These stones form in the kidney, travel through the ureter and are eliminated through the urine if they are small. In some cases, the stone may not be able to travel through the ureter, causing pain, and possibly an obstruction, blocking the flow of urine out of the kidney. Kidney stones can be caused by a number of factors. The compositin of the stone depends on the cause but the most common type of stone contains calcium. Sỏi thận, đôi khi c̣n được gọi là sạn thận, là do kết quả của sự kết tủa của một số chất chứa trong nước tiểu. Những sỏi này thành lập trong thận và sau đó lưu chuyển qua niệu quản (ureter) xuống bàng quang. Nếu nhỏ nó có thể thoát ra với nước tiểu. Trong trường hợp sỏi lớn không thể đi qua được niệu quản nên nó cứ nằm trong niệu quản, gây nghẽn niệu quản và làm cản trở ḍng nước tiểu đi xuống bàng quang làm bệnh nhân lên cơn đau. Có nhiều yếu tố gây sỏi thận như nhiễm độc, vài loại ẩm thực, thuốc, và những điều kiện làm tăng hàm lượng calcium hay những chất khác như oxalate và acid uric trong nước tiểu. Loại sỏi thận thường thấy nhất là loại sỏi thận chứa calcium. ![]() Dịch tễ học (Epidemiology) Tại Mỹ sự thịnh hành của bệnh sỏi thận gia tăng cho cả đàn bà và đàn ông, cho người da trắng cũng như người da đen. Nguy cơ mắc bệnh sạn thận trong đời được ước lượng là 12% cho đàn ông và 6% cho đàn bà. Đối với đàn ông, giai đoạn đầu cơn đau sỏi thận thường xảy ra giữa tuổi 30 và 60. Tỷ lệ mắc bệnh cho đàn ông chưa từng mắc bệnh sỏi thận bao giờ là từ 3 tới 4 trường hợp cho 1000 người trong một năm giữa tuổi 30 và 60 và giảm dần với tuổi. Đối với đàn bà tỷ lệ cao nhất giữa tuổi 20 và 30 (khoảng 2 cho 1000 người mỗi năm) và giảm xuống 1 cho 1000 đàn bà trong một năm cho 10 năm sau. Nguy cơ mắc bệnh sạn thận tái hồi cho
những bệnh nhân không được
chữa trị c̣n trong ṿng bàn căi. Những cuộc nghiên
cứu mới đây thông báo sự mắc bệnh sạn
tận tái hồi từ 30% tới 50% trong 5 năm. Tỷ
lệ bệnh tái phát đối với đàn ông được
báo cáo là 3 lần cao hơn đối với đàn bà. Tuy
nhiên những sự kiện lấy từ những nghiên
cứu có kiểm soát ngẫu nhiên cho thấy tỷ lệ tái phát bệnh
thấp hơn, từ 2 cho 100 người một năm cho
tới 5 cho 100 người một năm.
Số bệnh nhân
tới khám bệnh tại pḥng mạch v́ bệnh sỏi
thận gần gấp đôi từ 950,000 trong năm 1992 lên tới
1,825,000 trong năm 2000. Tuy nhiên ước lượng giá cả tổng
quát điều-trị bệnh sạn thận vẫn không thay
đổi vào khoảng 2 tỷ đô la mỗi năm, do sự
thay đổi điều trị từ nhập viện qua ngoại
chẩn.
Bệnh sinh học (Pathophysiology)
Có nhiều loại
sỏi thận. Khoảng 83% sỏi của đàn ông và 70%
sỏi của đàn bà có chứa calcium, dưới h́nh
thức calcium oxalate. Nói chung, bệnh nhiễm trùng đường
tiểu hay những bệnh cơ quan như bệnh
cường tuyến cận giáp (hyperparathyroidism)
thường gây nên dưới 10% sỏi thận cho đàn
ông và 25% sỏi thận cho đàn bà. Các loại sạn khác
như cystine, uric acid, và struvite thường ít thấy hơn. Tuy nhiên chúng
cần được chú trọng v́ sự bệnh có
thể tái phát.
Một sỏi thận
sẽ được kết tụ khi nồng độ
những chất kết hợp thành cao hơn độ tan
biến của chúng. Nguyên nhân kết hợp sạn
thận thay đổi với tùy loại sạn. Sỏi
cystine chỉ tạo thành ở những người
mắc chứng rối loạn liệt gen thể nhiễm
sắc định h́nh (autosomal recessive disorder), có cystine trong
nước tiểu. Sỏi acid uric kết tụ ở
những người có nước tiểu acid, có hay không
có bệnh trong nước
tiểu có acid uric. Sỏi struvite chỉ kết tụ khi
bị nhiễm trùng niếu quản phần trên do vi-trùng
sản xuất urease. Sỏi đôi khi kết hợp do
sự kết tủa của những thuốc như
acyclovir và indinavir.
Sỏi có chứa đựng
calcium có nhiều nguyên nhân. Sỏi chứa phosphate calcium
xảy ra khi có nhiều calcium trong nước tiểu, có ít
citrate trong nước tiểu và nước tiểu
kiềm. Sỏi loại này thường là kết quả
của những bệnh như bệnh ống thận quá
acid và bệnh cường tuyến cận giáp. Sỏi
oxalate calcium kết hợp khi nồng độ calcium,
oxalate, hay uric acid tăng lên và citrate trong nước
tiểu giảm xuống.
Yếu-tố gây bệnh (Risk Factors)
Sự kết hợp
sỏi thận tùy thuộc nhiều yếu-tố, nước
tiểu, ẩm thực và yếu tố di truyền cũng
như sự hiện diện của những bệnh khác.
Nồng độ, chứ không phải chỉ số
lượng tổng quát những yếu-tố trong
nước tiểu là những xác định then chốt
cho sự kết hợp sạn thận. Ư nghĩa của
nồng độ nhấn mạnh tới sự quan
trọng của số lượng chất lỏng được
uống và của khối lượng nước tiểu.
Tuy nhiên sự thành lập sỏi không thể ước đoán
được bằng thành phần nước tiểu
không thôi. Một số yếu-tố ẩm thực liên quan
tới nguy cơ thấp mắc sạn thận gồm có
dùng nhiều calcium, potassium, phytate và dùng ít protein thực
vật, sodium và sucrose. Ngoại trừ ẩm thực,
những yếu-tố toàn thân (systemic factors) như chỉ
số khối lượng thân h́nh (body mass index) cao (đặc
biệt cho đàn bà) bệnh thống phong (gout), và bệnh
cường tuyến cận giáp cũng có ảnh
hưởng.
Triệu chứng
Tùy theo kích thước
của sỏi thận, vị trí của cục sỏi
trong niệu quản, và hoặc là nó có liên quan đến
nhiễm trùng thận hay không, những triệu chứng có
thể khác biệt như đau lưng hay bên hông, có máu
trong nước tiểu, ói mửa, nóng sốt, đi
tiểu thường xuyên hay có cảm giác cần đi
tiểu ngay, và thấy đau khi tiểu tiện.
Khám bệnh và thử nghiệm
Sự phát bệnh điển
h́nh là lên cơn đau xóc hông
bất th́nh ĺnh đau dữ dội đến phải đưa
bệnh nhân tới pḥng cấp cứu. Dù rằng danh
từ “colic” (đau bụng trầm trọng, lên xuống
bất thường v́ các đợt đau vài giây hoặc
vài phút) được dùng, nó cũng không đúng hẳn v́
cơn đau không bao giờ
chấm dứt mà cứ tăng rồi giảm. Nó
thường đi đôi với nôn mửa. Cơn đau
thường chạy tới những điểm khác
biệt tùy theo vị trí của sỏi: khi sỏi nằm
ở trên niệu quản cao, cơn đau chạy vào
bụng, khi sỏi nằm ở niệu quản thấp,
cơn đau chạy xuống dịch hoàn cùng bên (ipsilateral
testicle) cho đàn ông, hay môi âm hộ cùng một bên (ipsilateral
labium) cho đàn bà, nếu sỏi nằm ở nơi
tiếp dẫn giữa niệu quản và bàng quang,
triệu-chứng chính là mắc tiểu và đi tiểu
nhiều lần. Một cách phát bệnh hiếm hơn là có
máu trong nước tiểu mà không đau.
Mặc dầu việc
khám bệnh không đủ để định bệnh,
nhưng nó cũng giúp cho sự chẩn đoán.
Người bệnh thường bị đau một cách
rơ rệt và không thể t́m được dù xoay trở đủ
cách một vị trí làm giảm được cơn đau.
Có thể có đau nhức nơi góc sườn và cột
xống (costo-vertebral angle tenderness) cùng một bên và trong
trường hợp bị tắc niệu quản, có
thể có dấu hiệu và triệu chứng nhiễm trùng.
Thử nghiệm hóa sinh trong máu b́nh thường,
nhưng gia tăng bạch cầu thường được
nhận thấy do nhiễm trùng hay áp trạng (stress). Thử nghiệm
nước tiểu cho thấy có bạch cầu và hồng
cầu và đôi khi tinh thể. Nếu niệu quản
bị tắc nghẹn hoàn toàn do sạn, ta sẽ không
thấy hồng cầu v́ không có nước tiểu
chảy xuống từ niệu quản vào bọng đái. Trên
phương diện lâm sàng, những bệnh nhân mắc bệnh
sỏi thận không triệu chứng thườùng có hồng
cầu trong nước tiểu.
Nên chọn lựa
phương pháp chụp quang tuyến cắt lớp
dạng xoắn (Helical CT) v́ sự mẫn cảm, khả năng
cho thấy sạn uric acid (được coi như
trong-radiolucent- trên phim quang tuyến) và không cần dùng
chất tương phản quang tuyến. Có rất ít
dữ kiện để so sánh CT và siêu-âm, nhưng trong
trường hợp đau sỏi cấp tính, sự
mẫn cảm của CT là 96% so với 61% cho siêu âm. Chuyên
biệt cho cả hai phương pháp là 100%. CT thường
cho thấy sỏi trong niệu quản hay sỏi đă đi
qua (ứ nước trong thận- hydronephrosis-) trong khi phim
x-quang thường có thể không phát giác được
sỏi trong niệu quản hay thận ngay cả khi
cản được tia-x và không thể cho thấy có
tắc nghẹn niệu quản.
Để t́m những
sạn vụn c̣n lại sau khi dùng phẫu thuật phá
sỏi ngoài thận (nephrostolithotomy), th́ CT mẫn cảm
hơn phim QT chụp thận, niệu quản và bàng quang
(KUB: Kidney Ureter Bladder) – 100% so với 46%- nhưng kém đặc
biệt- 62% so với 82 %-.
Siêu âm có điểm lợi là cho thấy thận và niệu
quản ở gần (proximal ureter) và như vậy sỏi
trong niệu quản thường không thấy được.
Một cuộc nghiên cứu phục hồi so sánh 123
lần khám với siêu âm so với CT cho thấy sự
mẫn cảm của siêu âm là 24% và sự chuyên biệt là
90%, siêu âm có thể không cho thấy những sạn nhỏ
hơn 3 mm.
Định bệnh phân biệt
Bệnh sỏi thận thường hay
xảy ra v́ vậy sự hiện diện của sỏi
không cho phép định bệnh một cách rơ rệt khi
bệnh nhân lên cơn đau bụng hay đau vùng hông. Ngoài
ra sạn thận có thể giống một số bệnh
cấp tính khác. Sỏi nằm trong niệu quản bên
mặt nơi giáp thận bắt chước giống
như viêm túi mật cấp tính (cholecyscitis), sỏi nằm
phía dưới niệu quản bên mặt giống như
viêm ruột dư (appendicitis), sỏi nằm nơi tiếp
giáp niệu quản và bàng quang giống như viêm
bọng đái (acute cyscitis), sỏi nằm
phía dưới niệu quản bên trái giống như viêm
bọc túi ruột già (divertivulitis). Một sỏi làm
tắc nghẹn niệu quản và nhiễm trùng phía
dưới có thể giống viêm thận.
Ngoài ra c̣n những cơn đau do bắp thịt và
xương, bệnh zona (herpes zoster), viêm túi mật cấp
tính, loét tá tràng, viêm ruột dư, viêm bọc túi ruột
già, viêm thận, ph́nh đại động mạch
bụng, những bệnh phụ nữ, nghẹt niệu
quản do máu đóng cục và teo niệu quản.
Điều-trị không giải-phẫu
Cơn đau
sỏi thận là một cơn đau dữ dội
nhất mà người bệnh phải trải qua, v́
vậy vấn đề đầu tiên là làm giảm
cơn đau. Nhiều cuộc nghiên cứu ngẫu nhiên có
kiểm soát cho thấy loại thuốc kháng viêm không có
steroid chích công hiệu ngang dược-phẩm có ma túy.
Những thuốc mới công hiệu gồm có thuốc
kháng co rút, thuốc ngăn chận alpha, chích lidocaine vào
nơi đau, desmopressin, và thuốc kháng viêm không có steroid
phối hợp với nitrates. Tiếp chất lỏng vào
tĩnh mạch cũng thường được dùng để
phục hồi khối lượng và như vậy có
thể giúp người bệnh tống sỏi ra.
Kiềm hóa nước tiểu có công hiệu để
chữa trị sỏi uric acid trong niệu quản, nhưng
loại sỏi này không thường thấy như loại
sỏi chứa calcium.
Vai tṛ của y-sĩ
chuyên khoa niệu-học và giải-phẫu
Y-sĩ chuyên khoa niệu-học
sẽ giúp cho việc chữa trị người bệnh đau
sỏi thận ấp tính. Nếu sạn không được
tống ra tự nhiên, người bệnh được cho về
nhà với thuốc trị đau nhức và sẽ trở
lại nếu lên cơn sốt hay đau nhức không
kiểm soát được. Phần lớn y-sĩ sẽ
chờ đợi vài ngày trước khi giải phẫu,
ngoại trừ trường hợp bị nhiễm trùng
hay không hy vọng sạn được tống ra tự
nhiên (sạn > 6mm), có sự hiện diện một
bất thường về cơ thể học ngăn
cản sự tống sạn hay là đau nhức không
chịu được. Tiếp cận đầu tiên không
cần thiết phải lấy sỏi ra mà là làm hết
tắc nghẹn. Những thanh ống niệu quản
(ureteral stents) có thể được đặt qua
bọng đái nhưng cần phải đánh thuốc mê
người bệnh. Nó cũng làm người bệnh khó chịu
và đôi khi gây đi tiểu ra máu. Chúng cũng đôi khi
giúp sỏi được tống ra hoặc có thể làm
sạn trở ngược lên thận và giúp cho sự điều-
trị bằng cách nghiền sỏi (lithotripsy).
Cách lấy sỏi ra tùy thuộc vào cỡ sỏi, vị trí
của nó, thành phần, cơ thể học của niệu
quản, và phương pháp có thể sử dụng và kinh
nghiệm của y-sĩ niệu-học. Cách nghiền
sỏi bằng làn sóng ngoại cơ thể (extracorporeal
shock wave lithotripsy) ít xâm nhập nhất. Nó công hiệu cho
sỏi nhỏ hơn 2 cm, nằm trong thận và thành
phần là calcium oxalate, apatite, uric acid, hay struvite.
Những
phương pháp xâm nhập (invasive) như lấy sỏi ra
qua bàng quang, hoặc dùng rọ (basket extraction) để
lấy sỏi ra hay bằng cách làm dập nát sởi có công
hiệu và đă được dùng để lấy
sỏi ngay cả trong thận. Lấy sỏi ra bằng
cách qua da (percutaneous nephroslithotomy) th́ nhiều xâm nhập
hơn nhưng đôi khi cần thiết nếu có nhiều
sỏi hay cho sỏi không thể lấy ra qua bọng đái.
Cũng may là ít khi cần mổ mở niệu quản hay
thận để lấy sỏi ra.
Điều-trị
sỏi thận cho những người mập ph́ rất
khó khăn. Sử dụng CT scan khó cho bệnh nhân mập
ph́. Dùng nghiền sỏi bằng làn sóng ngoài cơ thể
cũng khó dùng v́ mập ph́ ngăn trở t́m vị trí
sạn và làn sóng cũng khó tới sỏi. Phương pháp
nên dùng là soi niệu quản (ureteroscopy).
Lựa chọn cách chữa trị
Lấy
sỏi qua da hữu hiệu hơn tất cả nhưng
cũng xâm nhập nhất trong các phương pháp, tăng
giá cả và biến chứng. Dùng cách nghiền sỏi
bằng làn sóng ngoài cơ thể công hiệu cho đa
số loại sỏi, không đ̣i hỏi bệnh nhân
phải ở lại một đêm (có thể thực hiện
ở ngoại chẩn với ít hay không cần gây mê) và cho
phép người bệnh trở lại hoạt động
b́nh thường trong ṿng 1-2 ngày. Với sỏi nhỏ hơn 2 cm,
phương pháp này nên sử dụng v́ tương đối ít
tốn kém và công hiệu; tuy nhiên nếu cỡ sỏi gần tới
2 cm th́ sự cách biệt không c̣n nữa. Với những
tiến bộ của phương pháp lấy sỏi qua
bọng đái, nhiều y-sĩ chuyên niệu-học đă
dùng phương pháp này v́ nó sẽ làm giảm nhu cầu
phải chữa trị thêm và những biến chứng
thường nhận thấy với cách nghiền sỏi
bằng làn sóng ngoài cơ thể.
Pḥng ngừa sỏi thận
Sỏi
thận có thể ngừa được v́ vậy ta
cần phải t́m nguyên do kết hợp sạn với
mục tiêu đề pḥng thích hợp với từng cá
nhân.
Bệnh sử: số và loại
sỏi, cách chữa trị trước.
Khám bệnh: mặc dầu nó ít giúp t́m nguyên nhân nó có
thể phát hiện được nguyên do của cơn đau
mẫn tính mà bệnh nhân cho là sỏi gây nên.
Thử
nghiệm: Ngoài các chất huyết thanh sinh học để
đo cơ năng thận (creatinine), sự hiện
diện của nhiễm acid biến dưỡng (metabolic
acidosis – nồng độ CO2) và t́m kiếm bệnh
cường tuyến cận giáp (hyperparathyroidism - nồng độ
calcium và phosphorus), phương pháp then chốt là đo
nồng độ calcium nước tiểu hứng trong 24
giờ.
Khối
lượng nước tiểu, calcium, oxalate, citrate, uric
acid, sodium, potassium, phosphorus, pH và creatinine cần được
đo. Nếu không rơ loại sỏi, ta cần phải đo
cả cystine nữa.
Ngoài ra người bệnh cần phải được
chụp quang tuyến thận hàng năm trong nhiều năm
để biết rơ rằng sỏi có đang thành lập
hay không. Đối với những bệnh nhân dễ
bị sỏi tái phát th́ cần phải thay đổi cách
sống. Lượng uric acid trong máu có thể làm giảm
bằng cách giảm tiêu thụ protein. Citrate trong
nước tiểu có thể làm tăng bằng cách tiêu
thụ nhiều chất kiềm (rau và trái cây) và giảm đồ
ăn làm acid như chất protein thực vật. Không có
bằng chứng nào cho thấy giảm calcium trong đồ
ăn có lợi mà chính ra c̣n có hại. Để làm giảm
sự kết hợp sạn, tùy theo khối lượng
nước tiểu, người bệnh cần uống
thêm đủ số ly nước mỗi ngày để có
thể sản xuất 2 lít nước tiểu một ngày.
Nếu phương pháp ẩm thực không công hiệu, ta
phải dùng thuốc. Có 3 loại thuốc hay được dùng
nhiều nhất để pḥng ngừa sạn thận.
Thuốc lợi tiểu thiazides để làm giảm
calcium trong nước tiểu (ví dụ như chlorthalidone,
hydrochlorothiazide), thuốc kiềm dùng để tăng
citrate trong nước tiểu (như potassium citrate) và
allopurinol dùng để làm giảm uric acid trong nước
tiểu.
Đối
với bệnh nhân có nhiều calcium trong nước
tiểu với khối lượng nước tiểu
nhỏ, và những người không tiêu thụ nhiều
calcium, dùng thuốc lợi tiểu tiện thiazide là thích
hợp nhất.Thuốc thiazides được chứng
minh làm giảm sự kết hợp sạn tới 50% và c̣n
giúp duy tŕ mật độ xương. Muối citrate và
allopurinol đă được chứng minh làm giảm
sự thành h́nh sỏi calcium oxalate tái phát tới 50% cho
những bệnh nhân có ít citrate trong nước tiểu và
có nhiều uric acid trong nước tiểu.
BS Trịnh Cường
18 March 2005
Coi h́nh các loại sỏi thận:
| |