T́m hiểu về
Những thuốc gây nên hội chứng
tiết ra không đúng lúc Hormone kháng bài niệu
(Drug-Induced Syndrome of Inappropriate Secretion of Antidiuretic Hormone)
Giang Nguyễn Trịnh, R.Ph, D.Ph.
Tóm lược
Dược phẩm thường là lư do chính
gây nên hội chứng tiết ra không đúng lúc hormone kháng
bài niệu (SIADH) ở người lớn tuổi. Cơ
chế tác dụng của thuốc trên sự phân tiết
hormone kháng bài niệu (antidiuretic hormone/ADH) tùy thuộc vào loại
thuốc.
SIADH gây nên
chứng thiếu sodium trong máu (hyponatremia) cần phải được
chữa trị ngay v́ nếu để lâu ngày chứng
hyponatremia này có thể gây hậu quả làm hư hại liên quan đến
thần kinh.
SIADH rất khó chẩn đoán đúng v́ nhiều bệnh có thể
làm thay đổi khả năng bài tiết nước
của bệnh nhân. Thường thường nếu
thuốc là nguyên nhân chính th́ sau khi ngưng thuốc th́
hội chứng này cũng loại mất.
Bài viết này gồm hai phần, phần đầu
nói tổng quát về SIADH, chẩn đoán SIADH. Phần hai
nói về những thuốc gây nên SIADH.
Giới y tế săn sóc sức khỏe
bệnh nhân nếu có kinh nghiệm quen thuộc với
dạng và triệu chứng lâm sàng cùng những thay đổi
sinh hóa do thuốc gây nên th́ sẽ giúp được
rất nhiều trong việc nhận định bệnh
nhân mắc SIADH.
Phần I
Hội chứng tiết ra không đúng lúc hormone kháng bài niệu
(Syndrome of Inappropriate Secretion of Antidiuretic Hormone - SIADH)
Nhập đề
Nước chiếm
cỡ 55% đến 80% trọng lượng cơ thể,
tùy thuộc vào tuổi và giới tính. Nước trong
cơ thể nếu tăng cao quá có thể gây tử vong.
Hormone kháng bài niệu (antidiuretic hormone), arginine vasopressin (AVP)
giữ vai tṛ quan trọng trong việc điều ḥa
nước và nồng độ osmole thẩm thấu dung
dịch bằng cách tăng sự tái hấp thụ
nước.
Hội chứng tiết không đúng lúc
hormone kháng bài niệu (SIADH) do hậu quả của sự
quân b́nh giữa nước và những chất ly giải
bị xáo trộn. Trong trường hợp này lư do là sodium
trong máu xuống thấp.
Sodium thấp trong máu (hyponatremia)
Nồng độ thẩm thấu osmole
trong huyết thanh là nồng độ của những
chất ly giải và những phần tử năng động
thẩm thấu dung dịch khác. Sodium (Na) cation ngoài tế
bào là phần tử điều ḥa nồng độ
thẩm thấu của huyết thanh.
Hyponatremia với nồng độ < 136
mEq/L sẽ gây nên giảm trương lực (hypotonicity) và
là sự bất b́nh thường của chất ly giải
thường thấy cỡ 2% ở những bệnh nhân nhập
viện.
Sinh lư học của ADH
Antidiuretic hormone (ADH), cũng được
gọi là vasopressin, là sản phẩm của những
tế bào đặc biệt trong vùng năo dười đồi
(hypothalamus) và được dự trữ ở những
hạt lớn trong dây thần kinh tận cùng của thùy sau
tuyến yên (posterior pituitary gland). Hormone này giữ vai tṛ điều
ḥa nồng độ thẩm thấu và thể tích máu trong
cơ thể. Khi ADH phân tiết vào hệ thống tuần
hoàn, hormone này sẽ gắn liền vào thụ thể trong
ống nhỏ ở xa (distale tubule) và ống thu thập (collecting duct), nhờ vậy
nó làm tăng độ thẩm thấu của nước
tại những nơi đó. Khi sự tái hấp thụ
nước tự do tăng th́ sự bài tiết
nước tiểu giảm.
Cơ chế tác dụng
Cơ chế tác dụng sinh lư kiểm soát
sự phân tiết ADH do hai cách.
Thứ nhất là do sự gia tăng thẩm thấu trong huyết
thanh gây kích thích thụ thể thẩm thấu (osmoreceptors)
trong vùng dưới đồi do đó gây nên sự phân
tiết ADH từ thùy sau tuyến yên. Trong thận, khi
sự tái hấp thụ nước làm loăng huyết thanh và
làm giảm nồng độ osmole/kg dung dịch (osmolarity),
sự bài tiết nước tiểu sẽ giảm
thiểu. Ngược lại, khi nồng độ
thẩm thấu của huyết thanh giảm xuống làm ngăn
cản sự phân tiết ADH, thận phản ứng
lại bằng cách gia tăng bài tiết nước
tiểu.
Thứ hai,
những thụ thể duỗi (stretch receptors) trong tâm
nhĩ trái (left atrium), và thụ thể nhận cảm áp
(baroreceptors) trong xoang động mạch chính (carotid sinus),
và cung động mạch chủ (aortic arch) giữ
nhiệm vụ đáp ứng những đổi thay trong
thể tích máu. Khi áp suất trong máu tăng, những
thụ thể này phản ứng bằng cách ngăn
chặn những xung lực (impulses) từ vùng dưới đồi
truyền tới thùy sau tuyến yên để làm giảm
sự phận tiết chất ADH. Khi ADH giảm th́
lượng nước tiểu bài tiết tăng, và
thể tích máu sẽ trở lại b́nh thường.
Ngược lại khi áp suất trong máu
giảm th́ lượng ADH phân tiết tăng. Thận
sẽ đáp ứng bằng cách giữ lại nước
lại, lượng nước tiểu bài tiết sẽ
giảm đi.
Hội chứng tiết không đúng lúc hormone kháng bài niệu (SIADH)
SIADH xẩy ra do bất điều ḥa ADH qua
cơ chế sinh lư, có nghĩa là ADH cứ tiếp tục được
tiết vào hệ thống tuần hoàn mà nguyên do không
phải từ độ thẩm thấu osmol trong huyết
thanh. Hiện trạng này làm lượng dịch trong cơ
thể bị giữ lại gây nên sự gia tăng thể
tích của dịch ngoài tế bào, và kết quả là loăng
sodium trong máu. Đặc điểm của SIADH này là sodium
trong máu thấp, thể tích dịch đào thải giảm
mà bệnh nhân không có triệu chứng giảm thể tích máu lưu
thông (hypovolemia), giảm áp huyết, hay chức năng
bất thường của tim mạch, thận, tuyến
giáp, hay hệ thống thượng thận.
Đặc trưng lâm sàng (clinical features)
SIADH bắt đầu có triệu chứng
khi sodium trong máu < 125 mmole/L.
Khởi đầu bệnh nhân bị chứng
ngủ lịm (lethargy), lờ đờ về thể
chất và tâm lư, chứng co cứng cơ (cramps), biếng ăn
(anorexia), buồn ói mửa. Sau đó nó có thể tạo nên
những biến chứng về thần kinh như biến
đổi mực sáng suốt, nhức đầu, đăng
trí, rối loạn tâm thần.
Khi sodium trong máu < 110 – 115 mmol/L, chứng co
giật trở nên trầm trọng, năo có thể bị
hư hại không đảo ngược lại được, v́ vận
chuyển thẩm thấu nuớc vào trong tế bào năo gây nên phù năo, bệnh nhân
có thể bị hôn mê, và sau cùng có thể bị tử vong.
Chẩn đoán bệnh
Bệnh SIADH chẩn đoán
căn cứ trên cách loại bỏ hết nghi ngờ bệnh nhân bị mắc
những bệnh như suy tim, suy thận, sơ cứng gan với tràn dịch
ở bụng (ascites/trướng bụng) và không đủ kích
thích tố thượng thận; mà tất cả những bệnh vừa kể
trên đều liên quan đến sự suy kém khả năng
loại bỏ nước.
Đôi khi t́nh trạng giả vờ
thiếu sodium trong máu (pseudohyponatremia) với nồng độ
thẩm thấu huyết tương b́nh thường hay
cao có thể làm lầm lẫn với hyponatremia thật
sự.
Lipid hay protein trong máu cao quá cũng có thể
gây bất b́nh thường cho lượng sodium trong máu.
Đôi khi những trường hợp
giả tạo SIADH (factitious SIADH) cũng có thể xẩy
ra khi mà lư do bị hyponatremia không t́m ra được. Thí
dụ như thuốc nhân tạo giống ADH desmopressin
dưới dạng thuốc xịt mũi dùng để
trị chứng tiểu dắt (urinary incontinence) hay đi
tiểu đêm (nocturnal enuresis) gây nên bởi thuốc
trị bệnh thần kinh.
Phần II
Thuốc gây nên Hội chứng tiết
không đúng lúc hormone kháng bài niệu
SIADH và người lớn tuổi
Ở những người lớn tuổi, SIADH gây nên hyponatremia
có thể là bệnh thật sự hoặc có thể là do
dược phẩm tạo nên v́ những người
lớn tuổi thường có thay đổi sinh lư trong
sự cân bằng chất ly giải (electrolytes), và
thường được trị liệu với
nhiều thuốc có thể gây nên SIADH.
Phần
II của bài viết này chỉ có mục đích thu gọn
toàn diện, mà không nhắm bao trùm đầy đủ
tất cả những lư do gây nên SIADH hoặc do thuốc
hoặc do bệnh tật gây nên. V́ những tường
tŕnh trường hợp bệnh lư càng ngày càng nhiều đối
với từng thuốc, từng loại thuốc, từng
bệnh tật, cập nhật hóa tài liệu đôi khi
mất thời gian tính, sự thiếu sót chắc chắn
không thể nào tránh khỏi.
Thuốc gây nên SIADH (Drug-Induced SIADH)
Đă lâu những thuốc dùng để trị chứng bệnh
đi tiểu tháo lạt (diabetes insipidus) có cơ chế tác
dụng làm giảm đi tiểu được
tường tŕnh là có khuynh hướng gây nên hyponatremia.
Tùy theo từng loại thuốc, cơ chế tác dụng của
một thứ thuốc can thiệp vào sự sinh tiết
cùng tác dụng của ADH có thể khác nhau.
Thuốc
được biết nhiều nhất gây SIADH gồm
thuốc lợi tiểu loại thiazide, thuốc trị
bệnh ung thư như vincristine, vinblastine, cyclophosphamide
liều rất cao, và chlorpropamide, carbamazepine, phenothiazines,
tricyclic antidepressants, clofibrate, oxytoxin, vasopressin, morphine,
barbiturates, nicotine, selective serotonin reuptake inhibitors (SSRIs), etc.
Một số trường hợp đă tường tŕnh qua
nhiều báo chuyên khoa khác nhau và trên Medline được tóm
tắt dưới đâỵ
Thuốc kích thích tuyến yên (hypophyse) tiết ra ADH và từ đó
làm tăng tác động của ADH gồm nicotine, phenothiazines, và tricyclics.
Một số thuốc khác có cơ chế làm tăng tác
năng ADH trên thận như vasopressin, desmopressin, oxytocin, và thuốc ngăn
chặn tổng hợp prostaglandin.
Một số thuốc khác có thể gây nên SIADH do nhiều cơ
chế khác nhau, trong đó một số như chlorpropamide, carbamazepine,
cyclophosphamide, và vincristine.
Thuốc ngăn chặn men chuyển
angiotensin (ACE I) có thể tạo nên SIADH, cơ chế có
thể do làm mạnh thêm lực tiềm ẩn của tác
dụng của renin trong huyết tương, ACE I ngăn
cản chuyển men từ angio I sang angio II trong tuần hoàn
ngoại biên, nhưng không vào năo được, do đó
mực angiotensin trong máu tăng lên, chất này vào năo trở
thành angio II, làm kích thích tiết thêm ra AVP từ hypothalamus và
làm cho bệnh nhân khát nước, và rồi hyponatremia có thể
xẩy ra.
Thuốc lợi tiểu Moduretic (amiloride/hydrochlorrothiazide) gây
hyponatremia trầm trọng trong một trường hợp khác.
CNS agents như carbamazepine có thể tạo hyponatremia. V́ thuốc này
đă được biết từ lâu là có ảnh hương
tạo nên hyponatremia nên gần đây không có tường
tŕnh cập nhật. Trong những tường tŕnh cũ,
tốc độ hyponatremia khi bệnh nhân dùng carbamazepine
trong cỡ 31% đến 48% trường hợp. V́
carbamazepine thường dùng để trị bệnh động
kinh (epilepsy) và đau giây thần kinh (neuralgia), nên lâm sàng gia
thường phải theo dơi cả mức carbamazepine (CBZ)
lẫn Na trong máu.
Macrolides như azithromycin cũng
có một trường hợp tường tŕnh v́ bệnh nhân
chợt thay đổi trạng thái tâm thần do mắc
hyponatremia trầm trọng.
Nói vế thuốc bất hợp pháp
Ecstacy: một số tường tŕnh gần đây trên
thế giới cho biết thuốc bất hợp pháp
ecstacy (3,4-methylenedioxymethamphetamine) rất nguy hiểm có
thể làm mất mạng v́ t́nh trạng ngộ độc
nước (water intoxication) và
thũng năo (cerebral edema). Kết quả lâm sàng trên một
số trường hợp bệnh nhân nhập pḥng cấp cứu
cho biết hậu quả do SIADH
và uống quá nhiều chất lỏng.
Thuốc trị bệnh tâm thần
(psychotropic drugs)
Hyponatremia rất thông thường xẩy ra ở người
già do sự thay đổi sinh học, tiến
triển của bệnh hay tại thuốc. Một nửa
số người già có triệu chứng SIADH với hyponatremia,
điều quan trọng là cần phải t́m ra nguyên do chính
gây nên SIADH xem có phải do thuốc gây nên hay không. Những
biến đổi lâm sàng (clinical manifestations) của
SIADH là tiền trội (predominant) góp phần vào hyponatremia.
Sự trầm trọng của những triệu chứng
phát hiện tùy thuộc vào độ thiếu Na trong
máụ và sự nhanh chóng của hội chứng này trong khi
phát triển.
Ngoài một số thuốc đă bàn đến ở phần
trên, thuốc trị trầm cảm, thuốc trị
bệnh thần kinh ở số bệnh nhân lớn tuổi
chiếm một số lớn tường tŕnh v́ thuốc
loại này thường gây SIADH và hyponatremia.
Trong
những viện săn sóc người già, cỡ 50% bệnh nhân đều
được cho uống thuốc tâm thần, từ
những thuốc đă có mặt lâu trên thị
trường như fluphenazine, thiothixene, phenothiazine, tricyclic
antidepressants đến những thuốc thuộc nhóm
tương đối mới hơn như nhóm SSRI.
Sự liên quan giữa hyponatremia và
SIADH cùng với dùng những thuốc SSRIs gồm
fluoxetine, fluvoxamine, paroxetine, sertrazoline , và venlafaxine.
Tường tŕnh những trường hợp SIADH xẩy ra
sau khi dùng SSRI càng ngày càng nhiều. Một bảng điều
trần ước lượng cứ 1 trong 200 bệnh nhân dùng SSRI
sẽ bị chứng SIADH cùng với tuổi tác, sức
nặng cá nhân cũng góp phần vào hội chứng này. Độ
nhạy cảm với thuốc do tuổi cao, qua biến đổi
sinh lư của thận, cùng chức năng nội tiết làm
giảm lượng sodium (Na) trong máu; tỷ lệ cao
của uống nhiều thuốc (polymedication) và nhiều bệnh lư khác nhau
(pluripathology) trong nhóm bệnh nhân lớn tuổi cũng là những
yếu tố rủi ro góp phần vào SIADH ở
người già.
Dù rằng tường tŕnh cho biết có sự liên quan
giữa SIADH và dùng thuốc SSRIs rất nhiều, nhưng
cho tới hiện tại cũng chưa có một bản
nghiên cứu nào cho biết hiệu quả của SSRIs trong
việc điều ḥa quân b́nh nước/sodium trong cơ
thể, hay thuốc SSRIs có hiệu quả độc lập trong việc
điều ḥa sự cân bằng này khi bệnh nhân dùng thuốc.
Risperidone
có một tường tŕnh làm một bệnh nhân bị động
kinh toàn phần, Na trong máu thấp, hôï hấp suy yếu, và
bị bệnh globin cơ niệu kịch phát (rhabdomyolysis).
Citalopram có hai trường hợp tường tŕnh, tính
đến đầu năm 2001.
Ngoài những thuốc kể trên, c̣n có một số thuốc
khác kể cả thuốc chữa trị ung thư cũng
có thể gây nên SIADH như vincristine, vinblastine.
Trị liệu SIADH do thuốc gây nên
Trị liệu căn bản gồm giảm bớt lượng
chất lỏng tiêu thụ, hồi phục lại thế
cân bằng của Na trong máu, và ngăn chăn tác dụng
chống lợi tiểu của ADH.
Giải pháp dễ và hợp lư nhất là ngưng dùng những
thuốc có thể gây nên SIADH, nhưng trong rất nhiều
trường hợp, thuốc vẫn phải
được tiếp tục v́ những điều
kiện bệnh lư khác của bệnh nhân. Trong những trường hợp này,
bệnh nhân cần phải được kiểm soát kỹ lưỡng
lượng chất lỏng thu nhận vào cơ thể qua
đường tiêu hóa và đường tĩnh mạch.
Bệnh nhân cần cho uống thuốc lợi tiểu, truyền
sodium chloride qua đường tĩnh mạch, và dùng lithium hay demeclocycline.
Cả hai thuốc demeclocycline và lithium carbonate đều gây nên
t́nh trạng đái tháo lạt bởi mô thận gây nên
(nephrogenic diabetes insipidus) do tác động của kích thích
tố ADH trên chức năng thận. Cả hai thuốc
đều ngăn cản sự thành lập của cyclic
3,5 adenosine monohostphate (cAMP) tác động lên chức năng
mô và những ống nhỏ trong thận.
Lithium Carbonate
Lithium được
dùng trong chỉ định chữa SIADH từ năm 1975. Có một số
tường tŕnh cho biết có kết quả tốt của lithium với SIADH.
Nồng độ lithium trong huyết thanh nên duy tŕ ở khoảng 1 millimole /L. Lithium có
thể có công hiệu trong cả hai t́nh trạng bệnh lư cấp tính hay kinh niên SIADH.
Demeclocycline
Demeclocycline, một trụ sinh thuộc nhóm tetracycline, dùng trị
một số bệnh gây nên do vi khuẩn gram-negative và
gram-positive, công dụng khác của demeclocycline để
trị SIADH cũng được tường tŕnh từ năm 1975.
Demeclocycline không được dùng để trị SIADH cấp tính v́
tác dụng để có hiệu nghiệm cần kéo dài vài
ngày. Đây là thuốc thích hợp chọn lọc để
chữa bệnh SIADH căn cứ trên t́nh trạng dược lư học của
bệnh. Thuốc uống bắt đầu từ liều
thấp 600 mg-900 mg lên đến 1200 mg một ngày chia làm hai/ ba lần. V́ cần một
thời gian để thuốc có hiệu nghiệm, liều thường
được tăng dần dần sau ít nhất ba hay bốn, năm ngày.
Chức năng thận cũng cần được theo dơi kỹ
lưỡng. Demeclocycline có thể gây nên chứng urea trong máu có thể đảo
ngược trở lại (reversible azotemia). Với những bệnh nhân bị
bệnh sơ gan (cirrhosis), thận bị độc hại (nephrotoxicity) có thể
xẩy ra.
Demeclocycline có cơ chế ngăn cản tác dụng chống
lợi tiểu của vasopressin tại ống thận ở xa.
V́ là thuốc thuộc nhóm tetracycline, demeclocycline có thể gây nên
nhạy cảm với ánh sáng (photosensitivity), bệnh nhân cần
phải tránh tia tử ngoại (ultraviolet). Thuốc không nên
uống với lúc ăn, những chất chứa aluminium,
magnesium, sắt, hay calcium có thể làm giảm sự hấp thụ demeclocycline.
Gần đây có vài nghiên cứu thử nghiệm t́m kiếm
những thụ thể đối kháng AVP antidiuretic receptor nhắm
vào thụ thể antidiuretic vasopressin chuyên biệt trong
thận, nếu có kết quả th́ trong tương lai
việc trị liệu bệnh nhân bị hyponatremia có
thể sẽ có hiệu lực hơn và dễ dàng hơn.
Kết luận
Giới chức y tế là những người đảm trách
theo dơi bệnh và thuốc cho bệnh nhân, nên cần phải ư thức và
nhận biết những thuốc nào có thể gây nên SIADH.
Cần nh́n vào tiểu sử hồ sơ thuốc trị
liệu dược lư của bệnh nhân khi bệnh nhân bắt đầu
uống thuốc và khi ngưng thuốc để có thể
t́m được lư do gây SIADH. Hơn nữa giới chức y tế cũng
cần quen thuộc với những dấu hiệu lâm sàng, triệu chứng, và
sự thay đổi sinh hóa liên quan đến
những thuốc gây SIADH. Cân nặng của bệnh nhân, số thể tích
chất lỏng tiêu thụ hàng ngày, cùng mực sodium trong máu cũng là những
yếu tố quan trọng phải theo dơi để có thể can thiệp cho
đúng lúc.
Home
| Literature
| Poetry
| Science
| Great Places
| Music and Other
| Comments
Copyright © 2004-2005
Giang Nguyen Trinh All Rights Reserved
This site is continually updated.
|