Strongyloides stercoralis

Strongyloides stercoralis

Một trường hợp nhiễm giun Strongyloides stercoralis

Giang Nguyễn Trịnh, R.Ph., D.Ph.

Những di dân mới tới lập nghiệp ở Mỹ có thể có những bệnh giun sán lãi như nhiễm giun loại Strongyloides, giun móc, sán lá gan (clonorchiasis), bệnh gạo do ấu trùng sán dây (cysticercosis), hay họ có thể mắc những bệnh không có nguồn gốc nhiễm độc rõ rệt như viêm tuyến tuỵ miền nhiệt đới.

Với nhiễm giun thuộc Strongyloides, triệu chứng cổ điển nhất để nhận biết bệnh này là nổi mày đay ngứa ngáy, đau bụng, và tiêu chảy.

Một trường hợp bệnh

Một người đàn bà Việt Nam, 47 tuổi, bị ung thư phổi (adenocarcinoma) với bướu ác tính đã chuyển đến óc và xương được trị liệu bằng quang tuyến. Bởi vì khi nhìn vào phết máu nhuộm, có sự hiện diện của bạch cầu ưa eosin (eosinophilia), nên mẫu phân được quan sát để tìm kiếm ấu trùng và ký sinh trùng. Thử nghiệm cho biết có sự hiện diện của ấu trùng dạng rhabditiform của giun Strongyloides stercoralis. Bệnh nhân được cho uống thiobendazole nhưng bệnh nhân không chịu nổi vì ói mửa và đau bụng. Trên lưng của bệnh nhân, phần phía dưới có nổi từng dày đỏ. Bệnh nhân sau đó cho chữa trị với ivermectin và hợp với thuốc nàỵ

Dịch tễ học

Nói một cách giản dị, thì khi dạng ấu trùng mang bệnh ở trong đất xâm nhập qua da ngưòi, giun Strongyloides stercoralis di chuyển, nhập vào hệ thống tuần hoàn và phát triển thành giun trưởng thành trong ruột. Giun cái đẻ ấu trùng trong ruột, ấu trùng loại ra trong phân, và chu kỳ lại tiếp tục. Đôi khi bệnh nhân bị táo bón, ấu trùng ở lại trong ruột lâu có thể hoàn tất một chu kỳ trong người bệnh (autoinfection) mà không cần phải theo chu kỳ loại theo phân ra ngoài và lớn lên trong đất. Những người có hệ thống miễn nhiễm suy kém, thì ký sinh trùng càng phát triển mạnh hơn trong ruột.

Triệu chứng lâm sàng

Nổi mày đay, ngứa ngáy vùng hậu môn, đau bụng và tiêu chảy la ba triệu chứng chính. Một số triệu chứng thuộc đường phổi cũng có thể hiện diện như khó thở, đau ngực và ho. Phết máu nhuộm cho thấy bạch cầu ưa  eosin thường hiện diện, nhưng nếu bệnh nhân bị suy yếu hệ thống miễn nhiễm thì có thể không thấy được. Trong trường hợp bệnh nhân bị nhiễm giun quá độ (hyperinfection) mà không chữa chạy kịp thời thì bệnh nhân có thể chết.

Chẩn bệnh

Trứng giun có thể tìm thấy trong lớp màng nhày của ruột non, nhưng ít khi thấy trong phân, nhìn phân dưới kính hiển vi, có thể thấy dạng rhabditiform của ấu trùng. Cần phải cẩn thận vì có thể lầm lẫn giun này với giun móc, giun này có miệng bao nang ngắn (short buccal capsule), còn giun móc có miệng bao nang dài hơn (longer buccal capsule). Tìm bạch cầu ưa eosin trên phết máu nhuộm giúp được cho chẩn bệnh.

Trị liệu

Cách chữa do kinh nghiệm là cách tốt nhất nếu nghi ngờ loại giun này Ivermectin là thuốc thích hợp nhất để trị liệu. Thuốc này có ít phản ứng phụ hơn thiabendazole.

Điểm đáng lưu ý là loại giun này có thể còn sống dai dẳng trong cơ thể hàng vài chục năm. Có những bệnh nhân trong quân đôi Mỹ đã thi hành nhiệm vụ ở cùng Đông Nam Á cỡ thời 1960s, đến bây giờ trong cơ thể vẫn còn ký sinh trùng này. Dù bệnh nhân không hề ra khỏi nước Mỹ cũng vẫn có thể mắc bệnh này; nguồn gây nên là từ một quần thể đặc biệt .

Lời ghi nhận

Trường hợp nhiễm giun Strongyloides stercoralis trên đây tường trình bởi BS Lynn W. Kitchens, MD, MPH. BS Kitchens làm việc trong chi phận quốc tế của nhà thương vùng St Paul, Min. khi viết bài này.

Giun Strongyloides stercoralis

Giun ký sinh sống trong ruột non các loài có vú, giun Strongyloides stercoralis là một loại ký sinh trùng hiện diện ở cả hai chu kỳ thể tự do và ký sinh trùng. Trong chu kỳ ký sinh, con giun cái thường thấy trong tế bào mô bề mặt trong ruột non người, dạng ký sinh trùng chỉ có con cái, không có con đực. Con cái đẻ ra ấu trùng không cần thụ tinh, dạng ấu trùng này không gây bệnh (rhabditiform) theo phân ra ngoài, một số sống dưới dạng tự do và một số sẽ nhanh chóng phát triển thành dạng ký sinh trùng giun sợi dài gây bệnh (filariform) trong vòng 24 đến 48 giờ.

Dạng tự do giun S. stercoralis sẽ lớn lên trong đất và trở thành con đực và con cái tự do, sản xuất thêm rất nhiều ấu trùng khác, một số có thể trở thành ấu trùng gây bệnh và chu kỳ ký sinh trùng cứ thế tiếp tục.

Dạng ấu trùng ký sinh sống trong đất có nhiễm phân người, đi xuyên qua da ký chủ người như loại giun móc (hookworm). Ấu trùng sau khi xuyên qua da bằng cách dùng enzyme thủy phân, nhập vào những mạch máu nhỏ trong da và phổi trong giai đoạn này có thể gây phát ban ngứa. Ấu trùng này sau khi di trú tới phổi, thâm nhập qua phế nang (alveoli) vào tiểu phế quản (bronchioles) gây hủy duyệt mô và xuất huyết phổi. Trong thời gian ở phổi, khi bệnh nhân ho lên và nuốt xuống đường ruột, ấu trùng sẽ di chuyển qua khí quản và thực quản đến ruột non. Giun trưởng thành đào trong thành ruột và có thể gây nhiều triệu chứng khác nhau.

Giun S. stercoralis cũng có thể gây bệnh cho người qua cơ chế tự nhiễm bệnh. Khi bệnh nhân bị táo bón lâu quá, ấu trùng ở lại trong ruột quá lâu có thể trở thành những ấu trùng gây bệnh, nó sẽ xâm nhập vào ruột và phát triển cũng giống như nó xâm nhập qua da.

Triệu chứng lâm sàng hiện tùy thuộc vào hai yếu tố là hệ thống miễn nhiễm của cơ thể và cơ chế của ký sinh khi thay đổi hình dạng.

Ta có thể phân biệt hai loại nhiễm trùng: kinh niên và nhiễm trùng quá mức (nhiễm trùng quá mức có thể tại chỗ hay lan tỏa).



Home | Literature | Poetry | Science | Great Places | Music and Other | Comments

Copyright © 2004-2005 Giang Nguyen Trinh All Rights Reserved

This site is continually updated.