Trịnh Nguyễn Đàm Giang Biên Soạn - Diễn Dịch Thơ
Thơ
Chữ Hán Nguyễn Du
Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần II Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần III ***** Mục LụcLời Mở Đầu
***** Lời Mở ĐầuBắc Hành Tạp Lục là một trong ba tập thơ gồm 249 bài viết bằng chữ Hán của thi hào Nguyễn Du, đó là Thanh Hiên, Nam Trung, và Bắc Hành. Thanh Hiên Thi Tập gồm 78 bài, Nam Trung Tạp Ngâm gồm 40 bài, và Bắc Hành Tạp Lục gồm 131 bài. Bài biên khảo này gồm 60 bài thơ đầu (Phần I) của tập Bắc Hành Tạp Lục, đánh số theo thứ tự giống như những tài liệu tham khảo, bắt đầu từ bài số 119 đến bài 179. Bắc Hành Tạp Lục ghi lại những địa danh, h́nh ảnh, nhân vật, cảnh vật, và hoàn cảnh mà Nguyễn Du đă quan sát, cùng những hoài niệm riêng tư cảm nhận trong hành tŕnh sứ bộ sang Trung Hoa vào những năm 1813-1814 dưới triều Gia Long. Tập thơ nầy cho thấy ở Nguyễn Du một khả năng quan sát chi tiết trung thực, kiến thức thâm sâu về địa lư và lịch sử Trung Hoa cũng như một hệ thống suy tư đặc thù sâu sắc về nhân sinh Trịnh Nguyễn Đàm Giang – Sóng Việt
***** Sách Tham Khảo Chính Truyện Cụ Nguyễn Du của Lê Thướ c- Phan Sĩ Bằng (1924) Thơ chữ Hán Nguyễn Du của Bùi Kỷ, Phan Vơ và Nguyễn Khắc Hanh (1959) Thơ chữ Hán Nguyễn Du của Lê Thước -Trương Chính (1965) 192 bài thơ chữ Hán Nguyễn Du của Bùi Hạnh Cẩn (1996) Nguyễn Du: Thơ Chữ Hán của Chi Điền Hoàng Duy Từ (1986) 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du của Duy Phi (2003) Nguyễn Du: Tác Phẩm Và
Lịch Sủ Văn Bản của Nguyễn Thạch
Giang-Trương
Chính (2000)
***** Nguyễn Du: Tiểu Sử, Thân Thế, Văn NghiệpNguyễn Du-Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ, sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766 (tức là ngày 23 tháng 11 năm Ất dậu), (v́ Nguyễn Du sinh cuối năm ta Ất Dậu, đầu năm tây 1766 nên hầu hết tài liệu đều viết như ông sinh năm 1765) dưới triều Lê Cảnh Hưng; người xă Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ Tĩnh. Cha là nhị giáp Tiến sĩ, Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm, từng làm tới Tể Tướng triều Lê mạt; mẹ (Trần Thị Tần) là người vợ thứ ba, người Kinh Bắc; anh là Toản Quận Công Nguyễn Khản cũng làm tới Tham Tụng, Thái Bảo trong triều. Khi Nguyễn Du lên mười th́ cha chết, 13 tuổi mẹ chết. Vào năm 1778, ông phải về ở với Nguyễn Khản, con bà vợ chính thất của bố. Được vài năm, Nguyễn Du trở về Tiên Điền ở với người chú họ Tiến sĩ Nguyễn Hành. Cũng trong năm 1778, Nguyễn Ánh nổi dậy ở miền Nam xưng là Đại nguyên soái cố gắng thu phục lại giang sơn của ông cha. Năm 1783, Nguyễn Du (18 tuổi) thi hương đậu Tam Trường. V́ lẽ ǵ không rơ, ông không tiếp tục thi lên nữa. Vào đời làm việc được cỡ 5 năm, vào năm 1789, sau khi Nguyễn Huệ kéo binh ra Bắc, đại thắng quân Thanh th́ Nguyễn Du về quê vợ ở Thái B́nh ngụ tại nhà người anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn. Trong thời gian này, một nhà văn thơ đàn anh của Nguyễn Du tên là Nguyễn Hữu Chỉnh phản Tây Sơn, bị tướng Tây Sơn là Vũ văn Nhậm cho xé xác phơi thây ở bốn cửa thành. Biến cố này đă lưu lại trong Nguyễn Du những dao động mạnh và có ảnh hưởng rất lớn đến tâm trạng của Nguyễn Du. Tập thơ chữ Hán Thanh Hiên Thi Tập gồm 78 bài làm trong giai đoạn 1786-1804, phần Mười năm gió bụi - 1786-1795, làm trong thời gian ông số ng ở Thái B́nh, gồm 27 bài thơ (theo một số tài liệu) là tập thơ chữ Hán đầu tiên của Nguyễn Du. Sau đó là 6 năm ông trở lại nhà sống dưới chân núi Hồng lĩnh, và hai năm làm Tri huyện ở Bắc Hà. Năm 1796: Nguyễn Du dự định vào Gia Định cộng tác với Chúa Nguyễn, âm mưu bị bại lộ, bị nhà Tây Sơn bắt giam ba tháng. "Có thể" Nguyễn Du đă thai nghén Truyện Kiều vào thời gian này. Năm nay Nguyễn Du đúng 30 tuổi. "Trải qua một cuộc biển dâu". (Một biển dâu = 30 năm). Năm 1797: Nguyễn Du ẩn dật tại Tiên Điền. Trải qua mười năm gió bụi ở Quỳnh Hải, 5 năm nghèo túng ở Hồng Lĩnh, không hợp tác với Tây Sơn, giữ vai Hồng Sơn liệp hộ (thợ săn) hay Nam Hải điếu đề (kẻ chài), đạm bạc rau dưa, Nguyễn Du như vẫn c̣n chờ thời. Năm 1801: Nguyễn Ánh hạ thành Huế, qua năm sau 1802 lật đổ Tây Sơn Nguyễn Quang Toản, hạ thành Thăng Long thống nhất sơn hà, lên ngôi Hoàng đế niên hiệu Gia Long, xuống chiếu mời các cựu thần nhà Lê trở lại làm quan. Nguyễn Du bắt đầu làm quan từ năm đó (1802). Năm 1805: Vua Gia Long vời Nguyễn Du vào Phú Xuân thăng chức Đông Các điện học sĩ, ban tước Du Đức Hầu, "có thể" cùng năm này Nguyễn Du đă hoàn thành tác phẩm Truyện Kiều. Năm 1813: Nguyễn Du được thăng Cần chánh đại học sĩ, đồng thời được cử làm Chánh sứ sang Tầu. Sau khi về nước, năm 1815, ông được thăng Lễ Bộ Hữu Tham Tri. Đường công danh của Nguyễn Du với nhà Nguyễn chẳng có mấy trở ngại. Ông thăng chức nhanh và giữ chức trọng, song chẳng mấy khi vui, thường u uất bất đắc chí. Theo Đại Nam Liệt Truyện: "Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngoài tỏ vẻ giữ ǵn, cung kính, mỗi lần vào chầu vua th́ ra dáng sợ sệt như không biết nói năng ǵ...'' Nguyễn Du ra làm quan mà vẫn chán nản buồn rầu, chức lớn, nhưng Nguyễn Du vẫn không có hào hứng trong nhiệm vụ, ba lần xin về hưu, sáng tác nhiều bài thơ đầy chán nản, than thở. Phải chăng những biến cố lịch sử trong thời gian này đă làm cho Nguyên Du trở nên yếm thế? Năm 1820: Vua Gia Long băng hà, Vua Minh Mạng lên ngôi, Nguyễn Du được cử sang Trung Quốc lần thứ hai, nhưng chưa kịp đi th́ bị bệnh mất vào ngày 16 tháng 9 năm 1820, hưởng thọ 54 tuổi. Đại Nam Liệt Truyện viết: "Đến khi ốm nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đă lạnh cả rồi. Ông nói "được" rồi mất; không trối lại điều ǵ.'' Tác phẩm tiêu biểu: ngoài Truyện Kiều nổi
tiếng ra, Nguyễn Du c̣n để lại Văn
Tế Thập Loại Chúng Sinh, Văn Tế Sống Hai Cô
Gái Trường Lưu, Thác Lời Trai Phường Nón
bằng chữ Nôm, và ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên
Thi Tập, Nam Trung Tạp Ngâm và Bắc Hành Tạp Lục.
***** Bắc Hành Tạp Lục – Phần I Xin nhắc lại ba tác phẩm chữ Hán của Nguyễn Du là (1) Thanh Hiên Thi Tập gồm ba phần: Mười năm gió bụi, Dưới chân núi Hồng, và làm quan ở Bắc hà , (2) Nam Trung Tạp Ngâm , và (3) Bắc Hành Tạp Lục. Tập Thanh Hiên gồm 78 bài thơ, tập Nam Trung gồm 40 bài, và tập Bắc Hành gồm 131 bài. Số lượng thơ sáng tác chắc chắn c̣n nhiều hơn nữa, nhưng đến nay những vị văn thi sĩ lăo thành để nhiệt tâm vào việc thu thập thơ chữ Hán của Nguyễn Du như nhóm của cụ Bùi Kỷ, nhóm cụ Lê Thước...chỉ thu thập được 249 bài. Nguyễn Du cùng phái đoàn đi công sứ Trung Hoa, rời ải Nam Quan ngày 6 tháng 4 năm Quí Dậu (1813) , lên tới Bắc kinh, lưu du phần lớn bằng thuyền, rồi trở về nước tới ải Nam Quan ngày 29 tháng 3 năm Giáp Tuất (1814). Theo tài liệu ghi chép và dựa theo những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du làm khi thăm viếng những di tích lịch sử Trung Hoa th́ lộ tŕnh của phái bộ Nguyễn Du như sau: Thăng Long, Nam Quan, Quảng Tây, Quế Lâm, Toàn Châu, Hồ Nam, Lôi Châu, Hành Dương, Giang Nam, Trường Sa, Tương Âm, Nhạc Dương, Hán Dương, Vơ Xương, Hứa Đô, Nghiệp, Hàm Đan, Tấn Dương, Yên Kinh, Sơn Đông, Khúc Phụ, Tứ Thủy, Từ Châu, Hoài Nam, An Huy, Vơ Xương, Lâm An (Hàng Châu), Quế Lâm, Quảng Tây, Nam Quan. Theo một tài liệu khác th́ lộ tŕnh sứ bộ như sau: Đường đi của sứ bộ Nguyễn Du (1813-1814) Nguyễn Du đi qua cửa Nam Quan ngày mồng 6 tháng 4 năm Quí Dậu (1813), đến Yên Kinh ngày 4 tháng 10 năm Quí Dậu (1813) và về qua Nam Quan ngày 29 tháng 3 năm Giáp Tuất (1814). 06-04 Quí Dậu : đi qua cửa Nam Quan (1813).
Bắc Hành Tạp Lục – Phần I 119 Long Thành Cầm Giả Ca
Bài Thơ Đầu Tiên Tập Thơ Bắc Hành Tạp Lục Bài thơ đầu tiên trong tập Bắc Hành Tạp Lục là bài Long Thành Cầm Giả Ca. Truyện Kiều theo tài liệu lưu trữ, đă được Nguyễn Du làm trong thời gian đi sứ. Nếu đúng như vậy th́ câu chuyện trong bài thơ chữ Hán Long Thành Cầm Giả Ca này có lẽ là một trong những nguồn hứng để Nguyễn Du sáng tác truyện Kiều. Tiểu dẫn của Nguyễn Du Bản dịch nghĩa Người gảy đàn đất Long Thành không rơ họ tên là ǵ. Nghe nói thuở nhỏ, nàng học đàn “Nguyễn” (đàn nguyệt ca do Nguyễn Hàm , người đời Tấn ở Trung Quốc chế ra) trong đội nữ nhạc ở cung vua Lê. Quân Tây Sơn kéo ra, các đội nhạc cũ người chết, kẻ bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ ôm đàn hát rong. Những bài nàng găy đều là những khúc cung phụng găy cho vua nghe, người ngoài không hề được biết, cho nên tài nghệ của nàng nổi tiếng hay nhất một thời. Hồi c̣n trẻ (1792-1793?), tôi đến kinh đô thăm anh tôi (Nguyễn Nễ), ở trọ gần Giám hồ (hồ Gương). Cạnh đó các quan Tây Sơn mở cuộc hát lớn, con hát đẹp có đến vài chục người. Nàng nỗi tiếng nhờ ngón đàn Nguyễn. Nàng hát cũng hay và khéo nói khôi hài, mọi người say mê, đua nhau ban thưởng từng chén rượu lớn, nàng uống hết ngay, tiền thưởng nhiều vô kể, tiền và lụa chồng đầy mặt đất. Lúc ấy tôi nấp trong bóng tối, không thấy rơ lắm. Sau được gặp ở nhà anh tôi. Nàng người thấp, má bầu, trán giô, mặt gẫy, không đẹp lắm, nhưng mước da trắng trẻo, thân h́nh đẫy đà, khéo trang điểm, lông mày thanh, má đánh phấn, áo màu hồng, quần lụa cánh chả, có vẻ phong nhă. Nàng hay uống rượu, hay nói pha tṛ, con mắt long lanh, không coi ai ra ǵ. Khi ở nhà anh tôi mỗi lần uống rượu th́ nàng uống say đến nỗi nôn bừa băi, nằm lăn ra đất, các bạn có chê trách cũng không lấy làm điều. Sau đó vài năm, tôi rời nhà về Nam (Thái B́nh), mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa Xuân năm nay (1813) tôi lại phụng mệnh sang sứ Trung Quốc, đi qua Long Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên phủ, có gọi tất cả vài chục nữ nhạc, tôi đều không biết mặt biết tên. Chị em thay nhau múa hát. Rồi nghe một khúc đàn Nguyễn trong trẻo nổi lên, khác hẳn những khúc thường nghe, tôi lấy làm lạ, nh́n người gảy đàn th́ thấy một chị gầy g̣, vẻ tiều tụy, sắc mặt đen sạm, xấu như quỷ, áo quần mặc toàn vải thô bạc thếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi im lặng ở cuối chiếu, chẳng hề nói cười, h́nh dáng thật khó coi. Tôi không biết nàng là ai, nhưng nghe tiếng đàn th́ dường như đă quen biết, nên động ḷng thương. Tiệc xong, hỏi th́ chính là người trước kia đă gặp. Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế! Tôi bồi hồi, không yên, ngửng lên cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa và nay. Người ta trong cơi trăm năm, những sự vinh nhục buồn vui thật không lường được. Sau khi từ biệt trên đường đi, cảm thương vô hạn nên làm bài ca sau, để ghi lại mối cảm hứng. 119/249 (Số 119 trong 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du) Long Thành Cầm Giả Ca Long thành giai nhân Dư ức thiếu thời tằng nhất kiến Tây sơn chư thần măn toa tận khuynh đảo Hào hoa ư khí lăng vương hầu Thủ tịch hồi dầu nhị thập niên, Tuyên phủ sứ quân vị dư trụng măi tiếu (8) Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy Thuần tức bách niên năng kỷ th́ Song nhăn trừng trừng không tưởng tượng Chú thích: (1) Tiến Phúc bi: bia chùa Tiến Phúc ở Nhiêu Châu, tỉnh Giang Tây. Tương truyền ông Phạm Trọng Yên đời Tống, lúc làm quan ở Bá Dương, có người học tṛ nghèo dâng bài thơ hay, ông muốn giúp đỡ, cho rập một ngh́n bản để bán lấy tiền. Chưa rập xong th́ một đêm bản in bị sét đánh vỡ tan. (2) Câu chuyện Trang Tích. Trang Tích là người nước Việt, làm quan nước Sở. Khi ông ốm, Sở Vương hỏi mọi người: "Tích là kẻ tầm thường ở đất Việt, nay làm quan nước Sở, được phú quư rồi, th́ c̣n nhớ nước Việt nữa không?" Viên thị ngự đáp: "Phàm người ta có nhớ nước cũ hay không, thường tỏ ra trong lúc đau ốm. Nếu lúc này ông ta nói tiếng Việt tức là nhớ nước Việt, bằng không th́ nói tiếng nước Sở." Sở Vương sai người lén nghe th́ thấy Trang Tích nói tiếng Việt. (3) Trung Ḥa: tên một điện của triều Lê ở Thăng Long. (4) Triền đầu: lấy khăn quấn đầu làm vật tặng thưởng. Đời Đường trong yến tiệc vua đăi, ai đứng dậy múa được ban gấm để quấn đầu như vật tặng thưởng. Về sau các món tiền thưởng cho người ca múa được gọi là triền đầu. (5) Ngũ Lăng: nơi có năm lăng tẩm của đế vương đời Hán, nơi này dân hào hoa phú quư thường ở. Bài T́ Bà Hành của Bạch Cư Dị có câu: Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu. (6) Trường An: chỉ Thăng Long. (7) Sau khi Tây Sơn bại, tôi vào Nam, ư muốn nói sau năm 1802 nhà thơ vào Phú Xuân làm quan. (8) Tuyên Phủ: chỉ quan trấn thủ Bắc Thành, vào lúc Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc mùa xuân 1813. (9) Nam Hà: chỉ phía Nam sông Gianh. Người Gảy Đàn Ở Long Thành Người đẹp Long Thành Nhớ hồi trẻ tôi đă gặp nàng một lần Quan tướng nhà Tây say rượu nghiêng ngả Vẻ hào hoa hơn bậc vương hầu Trong đầu nhớ lại đă hai mươi năm Nay Tuyên phủ sứ bày cuộc vui đăi tôi Điệu nhạc xưa làm ta thầm nhỏ lệ Thấm thoắt trăm năm có là bao
Hai mắt trừng lên tưởng nhớ chuyện xưa 120/249 Thăng Long I Tản Lĩnh Lô Giang tuế tuế đồng. (1)
Thăng Long I Núi Tản sông Lô qua bao năm
trời đều vẫn vậy,
Chú thích: (1) Thăng Long: Từ đời Lư, kinh đô Việt Nam đóng tại Thăng Long. Thăng Long nghĩa đen là rồng hiện lên. Đến đời Nguyễn, Gia Long đóng đô tại Huế, và đổi chữ Thăng Long là rồng hiện thành chữ Thăng Long là thịnh vượng. Nhưng trong văn thơ, cổ nhân vẫn viết chữ theo tên cũ Thăng Long là rồng hiện. (2) Bạch đầu: Nguyễn Du mới ba mươi tuổi đă bạc đầu và dùng chữ này để nói về ḿnh trong rất nhiều bài thơ trong Thanh Hiên Thi Tập và Nam Trung Tạp Ngâm . Nhưng chữ bạch đầu trong bài này nói về tuổi già. Nguyễn Du rời Thăng Long lúc nhà Lê mạt (1789), vua Lê chạy sang Trung Quốc, lúc ấy Nguyễn Du mới 25 tuổi. Đến khi Gia Long lên ngôi (1802) Nguyễn Du từ Hà Tĩnh ra Thăng Long làm quan. Lúc ấy Nguyễn Du 37 tuổi. Đến khi vâng mệnh đi sứ Trung Hoa (1813), Nguyễn Du đến Thăng Long một lần nữa. Bài thơ này làm lúc ra Thăng Long để sang Trung Quốc. Lúc đó Nguyễn Du đă gần ngũ tuần. Cho nên mới nói Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long. 121/249 Thăng Long II Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành,
Thăng Long II Trăng thuở nào chiếu sáng khu thành mới
122/249 Ngộ Gia Đệ Cựu Ca Cơ Phồn hoa nhân vật loạn lai phi,
Gặp Người Hát Cũ Của Em Tôi Nơi chốn thị thành gặp lại người sau thời
loạn,
Chú thích: Người em ở đây có lẽ Nguyễn Du muốn nói về người em trai tên là Nguyễn Ức. Nguyễn Ức lúc bấy giờ đang làm thiềm sự bộ Công, tước hầu. Khi Nguyễn Du ghé Thăng Long trên đường đi sứ, gặp lại người bạn ca hát của người em. (1) Chim hạc đen: Ư nói Nguyễn Du xa Thăng Long lâu ngày nay mới trở lại. (2) Hồng tụ: ống tay áo mầu hồng, chỉ áo đào hát.
123/249 Quỉ Môn Quan Liên phong cao sáp nhập thanh vân,
Cửa Ải Quỷ Môn Núi cao liên tiếp lên nhập vào mây xanh,
Chú thích: Quỉ Môn Quan là cửa ải thuộc tỉnh Lạng Sơn có núi rừng hiểm trở. (1) Hán tướng quân: chỉ Mă viện, mang quân sang đánh Giao chỉ, tuy được trận nhưng quân lính chết rất nhiều, không đáng được coi là chiến công.
124/249 Lạng Thành Đạo Trung Quần phong dũng lăng thạch minh đào,
Trên Con Đường Lạng Sơn Một dẫy núi dài, gió đập mạnh vào đá nghe như sóng vỗ,
125/249 Giáp Thành Mă Phục Ba Miếu Lục thập lăo nhân cân lực suy,
Miếu Mă Phục Ba ở Giáp Thành Ông già sáu mươi sức đà kém,
Chú thích: Mă Phục Ba tức Mă Viện, người đời Đông Hán, được phong là Phục Ba tướng quân. (1)–(2) Mă Viện đă ngoài 60 vẫn c̣n muốn đi đánh trận lập công, vua không muốn cho đi, Mă Viện mặc áo giáp nhảy lên ngựa tỏ ḿnh c̣n khỏe, được vua cười khen. (3) Thiếu Du em họ Mă Viện ngỏ ư can ngăn, v́ thương anh muốn lập công lớn chỉ chuốc lấy cái khổ vào thân. (4) Tương truyền Mă Viện khi sang Giao Chỉ có dựng cột đồng trụ ở địa phận tỉnh Quảng Tây làm biên giới đất Hán. (5) Mă Viện ở Giao Chỉ về có chở theo một xe hạt, ư muốn để chữa bệnh(?). Khi Mă Viện chết, có kể tố cáo với vua là Mă Viện chở ngọc châu về. Vua giận, nên vợ con Mă Viện không giám mang thây về quê, chỉ mang chôn sơ sài ở phía tây thành. (6) Vua Hán Quang Vũ có cho vẽ tượng 28 vị công thần ở gác Vân đài. Nhưng v́ Mă Viện có con làm hoàng hậu, nên vua tránh không cho Mă Viện dự vào đó. (7) Sau khi Mă Viện chết, nhóm phong kiến Trung Quốc bắt dân Việt lập đền thờ. Nguyễn Du chê trách việc làm này.
126/249 Lưu Biệt Cựu Khế Hoàng Táp niên cố hữu trùng phùng nhật, (1) Lưu Biệt Bạn Họ Hoàng Ba mươi năm mới gặp lại người bạn cũ,
Chú thích: (1) Táp niên: ba mươi năm trước là thời Nguyễn Du quen biết người bạn họ Hoàng này mà sau đó có lẽ là một quan vơ. Nguyễn Du làm bài thơ này vào năm 1813, trên con đường đi sứ sang Trung Quốc. (2) Lục Đầu Giang: Sông Lục Đầu chảy giữa hai tỉnh Hải Dương và Bắc Giang. (3) Tiều, ngư: ư nói có người bạn ẩn dật.
127/249 Trấn Nam Quan Lư Trần cựu sự diểu nan tầm,
Cửa Thành Ải Nam Quan Chuyện cũ Lư Trần khó mà t́m hiểu,
Chú thích: Trấn Nam Quan: tên cửa ải biên giới Việt Hoa từ tỉnh Lạng Sơn qua tỉnh Quảng Tây. Sau đổi là Mục Nam quan, rồi Hữu Nghị quan. 128/249 Nam Quan Đạo Trung Ngọc thư phủng há ngũ vân đoan, (1)
Trên Đường Qua Nam Quan Chiếu vua ban xuống từ trên từng mây năm sắc,
Chú thích: (1) Ngọc thư: chiếu nhà vua. (2) Hán Quan: trấn Nam Quan, sau đổi là Hữu Nghị Quan. (3) Minh Giang: Sông Minh Giang khúc này phân chia ranh giới giữa Việt và Trung Quốc. Sứ bộ đi theo sông này lên phái bắc Trung Quốc. Đời Thanh, kinh đô đóng ở Yên Kinh (Bắc Kinh). Ở đây Trường an không phải là chỉ đất Trường An ở Thiểm Tây mà chỉ kinh đô nói chung. 129/249 Mạc Phủ Tức Sự Triệt dạ la thanh bất tạm đ́nh,
Làm Thơ Ở Nơi Tạm Trú Suốt đêm tiếng thanh la đánh không ngừng,
Chú thích: Mạc Phủ: là nơi các quan văn hay vơ thường tạm trú trên đường công sự. Đây là nhà trạm sứ bộ nghỉ chân. (1) Yên Sơn: ám chỉ dẫy núi cao gần Yên Kinh. Nhà thơ dùng để chỉ đường đi tới Yên Kinh. 130/249 Minh Giang Chu Phát Tiêu cổ đông đông sơ xuất môn,
Thuyền Ra Đi Trên Sông Minh Giang Tiếng tiêu, tiếng trống nổi lên ầm ĩ lúc mới ra đến
cửa sông,
Chú thích: (1) Lúc làm bài thơ này, Nguyễn Nễ, anh của Nguyễn Du đă mất (1905), cho nên chỉ nói đến em trai, em gái. (2) Hoa Sơn: tên núi thuộc tỉnh Quảng Tây. 131/249 Hoàng Sào Binh Mă Đại tiểu Hoa sơn sổ lư phân,
Nơi Hoàng Sào Đóng Binh Ngựa Núi Hoa lớn nhỏ chia cách nhau vài dặm,
Chú thích: Hoàng Sào: là người đời Đường, quê ở Sơn Đông, học giỏi nhưng thi nhiều lần không đỗ tiến sĩ. Là một dũng sĩ, hay cứu giúp người nghèo. (1) Sau một cuộc khởi nghĩa kéo dài 10 năm (875-884), Hoàng Sào vào được Trường An, lên ngôi Hoàng Đế, quốc hiệu Đại Tề, niên hiệu Kim Thống (880-881). (2) Tôn Sơn: tên người đỗ cuối bảng, Tôn Sơn bảng ngoại tức là hỏng thi. 132/249 Ninh Minh Giang Chu Hành (1) Việt Tây sơn trung đa giản tuyền,
Đi Thuyền Trên Sông Ninh Minh Dẫy núi Tây Việt có nhiều suối nhỏ,
Chú thích: (1) Minh Giang là con sông phát nguyên từ núi Phân Mao tỉnh Quảng Đông chia làm hai ngả, một ngả chảy theo hướng Bắc, một ngả chảy theo hướng Nam đổ ra vịnh Bắc Bộ. Ngả này là con sông chia ranh giới Việt Nam và Trung Quốc. Sứ bộ Việt Nam đi qua sông này lên phía Bắc Trung Quốc. (2) Đường giới, người đời Tống, tính cương trực, bị biếm đi nơi hẻo lánh. Khi thuyền ông đi qua sông Đoài, sóng gió nổi lên, ông ngồi ngay ngắn đọc câu thơ :"Xuất môn giai úy đồ." 133/249 Vọng Quan Âm Miếu Y thùy tuyệt cảnh cấu đ́nh đài? Trông Lên Miếu Quan Âm Chốn xa xôi ai xây cất lên đ́nh đài?
Chú thích: (1) Kim thân: ḿnh vàng chỉ tượng Phật. (2) Phi lai: từ chữ ”phi lai thạch”, lấy từ tích chùa Tương Sơn có ḥn đá ở Quảng Châu bay đến thành Phật. (3) Đàn hương: hương làm bằng gỗ chiên đàn. (4) Tuệ nghiệp: nghiệp do trí
tuệ gây ra. Từ điển tích trong kinh phật.
Phật Thích Ca mầu ni lấy con vua Hộc Phạn tên là
Da Du. Khi Thích Ca bỏ Hoàng cung xuất gia t́m đạo, th́
bà Da Du đă có thai. Thích Ca trao cho vợ một mảnh đàn
hương, buộc vào cạt áo, dặn vợ lúc gặp
tai nạn đốt lên th́ sẽ qua khỏi tai vạ. Khi vua
cha Thích Ca nghi Da Du ngoại t́nh nên có bầu, nên đem ra pháp
trường chất lửa đốt. Da Du theo lời
chồng dặn đốt mảnh đàn hương,
tức th́ lửa tắt. 134/249 Tam Giang Khẩu Đường Dạ Bạc Tây Việt trùng sơn nhất thủy phân,
Đêm Đậu Thuyền Ở Cửa Sông Tam Giang Một rặng núi Tây Việt, gịng sông phân chia đôi,
Chú thích: (1) Thập niên: Tác giả tính từ năm bắt đầu ra làm quan (1802) cho đến năm đi sứ (1813). 135/249 Thái B́nh Thành Hạ Văn Xuy Địch Thái B́nh thành ngoại tây phong khởi,
Bên Thành Thái B́nh Nghe Tiếng Sáo Thổi Phía ngoài thành Thái B́nh gió Tây bắt đầu trổi (1)
Chú thích: (1) Thái B́nh: một phủ thuộc tỉnh Quảng Tây. (2) Đoàn sứ bộ gồm hai mươi bẩy người. 136/149 Chu Hành Tức Sự Tây Việt sơn xuyên đa hiểm hy, (1) Đi Thuyền Hứng Viết Núi Tây Việt quả nhiều hiểm trở,
Chú thích: (1) Tây Việt chỉ Quảng Tây. 137/249 Thái B́nh Mại Ca Giả
Thái B́nh cổ sư thô bố y, Người Hát Dạo Ở Thái B́nh Ở Thái B́nh có người mù mặc áo vải thô, Chú thích: (1) Thế Dân và Kiến Thành: cả hai là con Đường Thái Tổ. Kiến Thành là anh được phong làm thái tử để sau nối ngôi vua. Thế Dân là em nhiều mưu lược, tập hợp được nhiều vơ tướng, sau giết Kiến Thành, dành ngôi thái tử. Thế Dân sau đó lên ngôi làm vua tức Đường Thái Tông (627-649). 138/249 Sơn Đường Dạ Bạc Ngọ mộng tỉnh lai văn,
Đêm Thuyền Đậu Ở Sông Sơn Đường Giấc ngủ trưa tỉnh dậy đă muộn màng,
139/249 Đề Đại Than Mă Phục Ba Miếu Tạc thông lĩnh đạo định Viêm khư,
Thơ Đề Miếu Mă Phục Ba Ở Đại Than Mở đường Ngũ lĩnh qua đánh g̣ Viêm,
Chú thích: (1) Em họ Mă Viện là Thiếu Du nói: “Người ta sinh ra cốt ăn mặc vừa đủ thôi, nếu cầu thêm thừa thăi th́ chỉ khổ thân.” (2) Mộ Mă Viện chôn phía Tây Thành (xem ghi chú trong bài 125/249, Giáp Thành Mă Phục Ba Miếu). (3) Dâm đàm là Hồ Tây. Sử viết khi Mă Viện sang đánh hai bà Trưng, đóng quân ở hồ Dâm đàm, thấy mặt hồ đầy khí lam chướng, diều lượn mặt hồ. Mă Viện nghĩ hối hận nói: “Nay nghĩ lại lời Thiếu Du thấy nói đúng nhưng không làm sao được nữa.” 140/249 Văn Há Đại Than, Tân Lạo Bạo Trướng, Chư Hiểm Câu Thất Ngân hà tạc dạ tự thiên khuynh,
Chiều Xuống Đại Than, Nước Lụt Dâng Cao, Những Quăng Hiểm Trở Đều Ngập Nước Nước sông Ngân tối qua tự nhiên đổ xuống,
Chú thích: (1) Trung tín: theo điển Đường Giới tống nói: “B́nh sinh trượng trung tín,
141/249 Há Than Hỉ Phú Tâm hương bái đảo tướng quân tỳ (từ),
Thuyền Xuôi Có Thơ Vui Thành tâm dâng hương miếu tướng ông,
142/249 Thương Ngô Tức Sự Ngu đế nam tuần cánh bất hoàn (1)
Tức Cảnh Thương Ngô Vua Thuấn nam tuần không trở về, (1)
Chú thích: (1) Sử chép vua Thuấn nam tuần (tỉnh Hồ Nam) chết bất th́nh ĺnh và an táng tại đó. (2) Hai bà phi của vua Thuấn, Nga Hoàng và Nữ Oanh, khóc vua Thuấn nước mắt rơi làm lốm đốm trên lá trúc. (3) Cửu Nghi: dẫy núi Cửu Nghi cũng gọi là Thương Ngô, ở tỉnh Hồ Nam. (4) T́ bà hành: chỉ tiếng đàn t́ bà của Nga Hoàng và Nữ Anh, chứ không phải t́ bà nói trong bài T́ Bà Hành của Bạch Cư Dị. 143/249 Thương Ngô Mộ Vũ Vũ trệ Tầm Giang hiểu phát tŕ, (1)
Thương Phố Chiều Mưa Tầm Giang mưa sớm, rời bến trưa,
Chú thích: (1) Tầm Giang: tên một con sông thuộc huyện Quế B́nh, tỉnh Quảng Tây, chảy qua Thương Ngô vào Quế Giang. (2) Ngô thành: có hai nơi gọi tên Thương Ngô. Tỉnh Quảng Tây có Thương Ngô (Ngô Châu). Ở tỉnh Hồ Nam, Thương Ngô là tên dăy núi cũng gọi là núi Cửu Nghi. Bài thơ này hai câu đầu nói đến Thương Ngô ở Quảng Tây, v́ câu bẩy nhắc đến Tương Đàm là một huyện thuộc Hồ Nam. Nhưng câu bốn lại nói nh́n về núi Cửu Nghi (Thương Ngô, Hồ Nam), nơi vua Thuấn mất nên trạnh ḷng nhớ đế hai bà phi của vua Thuấn. (3) Tam Sở: ba miền nước Sở gồm Tây Sở, Nam Sở, và Đông Sở, nay là đất các tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc. (4) Hạ: chữ hạ có sách diễn là chỉ nước Trung Quốc (Hoa Hạ), ư nói đi trên chiếc thuyền nhỏ th́ khó ḷng mà đi khắp Trung Quốc.
144/249 Ngũ Nguyệt Quan Cạnh Độ Hoài Vương qui táng Trương Nghi tử, (1,2)
Tháng Năm Xem Đua Chải Sở Vương cốt đă rước
về, Trương đă chết,
Chú thích: (1, 2) Sở Hoài Vương không nghe lời Khuất Nguyên can, sang hội nước Tần, bị giữ lại rồi chết ở đó. Sau hài cốt được mang về táng ở nước Sở. (3) Trương Nghi: mưu sĩ nước Tần, bạn của Tô Tần, chủ trương thuyết liên hành, đi thuyết sáu nước xu phụ Tần theo kế liên hoành, chống lại kế hợp tung. (4) Khuất Nguyên: tự là B́nh, là người hoàng tộc trong nước Sở. Ông đa tài, vừa có khả năng về chính trị, văn học, vừa biết ứng đối với các chư hầu. Trong văn chương, ông có hai tác phẩm nổi tiếng là Ly Tao và Cửu Chương. Trong Ly Tao có câu: "Xâu chùm hoa lan để đeo". (5) Tống Ngọc có làm bài thơ Chiêu hồn để tỏ ḷng thương nhớ Khuất Nguyên. (6) Hai câu chót kư thác tâm sự của nhà thơ.
145-159/249 Thương Ngô Trúc Chi Ca 15 bài thất ngôn tứ tuyệt Nguyễn Du làm khi đi qua vùng Thương Ngô. 145/249 I Quế Lâm tân lạo dũng trường xuyên,
Nước lụt Quế Lâm thật mênh mông,
146/249 II Văn Xương các thượng dạ đăng minh.
Đèn đêm sáng ngời gác Văn Xương,
147/249 III Vũ tự bàng đà vân tự si,
Mưa rơi sướt mướt, mây lững lờ,
Chú thích: (1) Cửu Nghi Sơn: c̣n gọi là núi Thương Ngô, núi có chín ngọn thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. (2) Ngu Vương: Vua Thuấn đời nhà Ngu, nên gọi là Ngu Vương. (3)Nhị phi: hai vợ của vua Thuấn tên Nga Hoàng và Nữ Anh. Tích kể rằng sau khi vua Thuấn mất, hai bà đi t́m, đến sông Tương, trông lên núi Thương Ngô than khóc rồi gieo ḿnh xuống sông Tương. 148/249 IV Thanh sơn lâu các nhất tằng tằng,
Núi xanh, lầu cao hàng lớp lớp,
149/249 V Lăng hoa song trạo tật như phi,
Đôi chèo thuyền quẩy sóng lướt như bay,
150/249 VI Nhất thanh liệt trúc tán lưu hoàng
Một tiếng pháo nổ, khói lưu hoàng bốc ra
Chú thích: (*) Hành Dương thuộc tỉnh Hồ Nam. 151/249 VII Trường giang ba lăng diểu vô nhai,
Sông Trường sóng nước chẳng thấy bờ,
152/249 VIII Kê Lung sơn tại thuỷ trung ương,
Kê Lung núi ở giữa gịng sông,
Chú thích: (1) Thiên phi các: đền thờ hai bà phi, con gái vua Nghiêu tên Nga Hoàng và Nữ Anh. 153/249 IX Thành bắc sơn lưu hồng cánh hồng,
Phía thành bắc lựu núi hồng thêm hồng,
154/249 X Ban trúc yên đồng xích nhị trường, (1)
Hoa trúc ống điếu dài hai thước,
Chú thích: (1) Ban trúc: trúc hoa. Tục truyền rằng Nga Hoàng và Nữ Anh khóc vua Thuấn, nước mắt vẩy vào bụi trúc thành đốm. (2) Vũ tiền: tức Vũ tiền trà, là một loại trà ngon, hái trước tiết cốc vũ (tháng ba). 155/249 XI Thập chích long châu nhất tự trần,
Mười thuyền rồng sắp hàng chữ nhất,
Chú thích: (1) Linh quân: tức Khuất Nguyên, điển tích rằng Khuất Nguyên trầm ḿnh trên sông Mịch La, một con sông nhỏ chảy vào sông Tương. Hàng năm cứ vào ngày giỗ Khuất Nguyên, người Trung Hoa thường tổ chức đua thuyền tượng trưng việc t́m thi thể của nhà thơ, để tưởng nhớ Khuất Nguyên. 156/249 XII Đường chu lan tiếp nhật tần phân,
Thuyền gỗ đường, chèo gỗ lan nhộn nhịp cả ngày,
157/249 XIII Duyên thành dương liễu bất thăng nhu,
Bên thành cây liễu thướt tha,
158/249 XIV Trường quần tập tập duệ khinh tiêu,
Quần luạ dài thướt tha kiều nữ,
Chú thích. (1) Quỷ đầu: một loại tiền cổ. 159/249 XV Thuyền vĩ đăng lung tứ xích can,
Đuôi thuyền có đèn lồng cán dài bốn thước,
160/249 Dương Phi Cố Lư (1)
Sơn vân tước lược ngạn hoa minh, Quê Cũ Dương Quí Phi Núi mây thưa thớt hoa rực rỡ bên bờ,
(*) Nguyễn Du không đi qua vùng này trên đường đi xứ, lư do tại sao bài thơ này sắp ở đây c̣n là nghi vấn. Chú thích: (1) Dương Quí Phi: tức Dương Ngọc Hoàn là Quí Phi của Đường Minh Hoàng. Quê ở làng Hoàng Nông, huyện Ḥa Âm, tỉnh Thiểm Tây ngày nay. V́ An Lộc Sơn nổi loạn, Đường Minh Hoàng (Đường Huyền Tông) phải chạy vào đất Thục. Đến đèo Mă Ngôi, quân lính đ̣i giết Dương Quí Phi và người anh tên Dương Quốc Trung, là những người làm Đường Minh Hoàng mê muội mà mất nước (Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành). Quốc Trung bị quân lính giết chết, Dương Quí Phi bị buộc thắt cổ tự sát ở đây. (2) Lập trượng: Đứng như gậy,
chỉ quan bù nh́n không dám can gián vua, để xảy ra
cuộc loạn An Lộc Sơn. Do lệ thiết
triều nhà Đường (lập trượng mă), có tám
con ngựa phải đứng chầu trong hàng gậy làm
nghi vệ cho vua. Con nào kêu hoặc đụng
đậy không đúng phép là bị thay thế. (3) Nam Nội: Tức cung Hưng Khánh, nơi Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi thường ra chơi. (4) Tây Giao: Cánh đồng ở phía tây Tràng An, chỉ g̣ Mă Ngôi nơi Dương Quí Phi bị buộc phải thắt cổ chết. 161/249 Triệu Vũ Đế Cố Cảnh Bạo Sở cường Tần tương kế tru,
Đất Cũ Của Triệu Vũ Đế Bạo cường Sở Tần theo nhau tàn,
Chú thích: Triệu Vũ Đế: tức Triệu Đà. Thời Tần, Đà làm quan úy ở Nam Hải. Khi Tần mất, Đà chiếm Quế Lâm, Tượng quận, tự xưng Nam Việt Vũ Vương. Hán Cao Tổ lên ngôi, sai Lục Giả xuống phong Đà làm Nam Việt Vương. Sau Đà chiếm mấy ấp ở Trường Sa, tự xưng Nam Việt Vũ Đế. Thời Hán Văn Đế, lại sai Lục Giả xuống dụ. Đà dâng thư tạ tội, bỏ hiệu đế, giữ chức phiên thần. (1) Lĩnh biểu: bên ngoài Ngũ Lĩnh, chỉ những miền phía Nam Ngũ Lĩnh như Quảng Đông, Quảng Tây, và nước Việt Nam. (2) Phiên Ngu: tức Phiên Ngung, thủ đô của Triệu Vũ Đế, nay tỉnh lỵ Quảng Châu. (3) Man di nhất lăo phu: lời Triệu Đà tự xưng trong tờ biểu đưa cho Lục Giả về dâng Hán Văn Đế. 162/249 Bất Tiến Hành Vũ sư thế khấp Bằng di nộ (1)
Thuyền Không Tiến Lên Được Thần mưa khóc thần nước giận,
Chú thích: (1) Vũ sư: Thần mưa. Bằng di: Thần nước. (2) Ngũ chỉ sơn: tên một dăy núi ở tỉnh Quảng Đông. Núi có năm chỏm núi đá như năm ngón tay chỉ lên trời. 163/249 Tam Liệt Miếu Thái nữ sinh sồ Trác nữ bôn, (1)
Miếu Ba Liệt Nữ Nàng Thái sinh con, Trác theo t́nh,
Chú thích: Tam Liệt Miếu: tác giả chú thích như sau: "Khoảng niên hiệu Chính Đức nhà Minh (1506-1521), Lưu Thời Cửu đi nhậm chức, thuyền tới nơi lập miếu th́ bị bọn cướp giết. Cả vợ, thiếp, và con gái đều không chịu nhục, nhảy xuống sông chết. Khoảng năm Gia Tĩnh (1522-1526) được biểu dương và lập miếu thờ. (1) Thái nữ: chỉ Thái Diễm, tự Văn Cơ, con gái Thái Ung, cuối đời Đông Hán, gặp lúc loạn lạc, bị quân Hung nô bắt đi, sang ở Hung nô mười hai năm, sinh được hai con. Sau Tào Tháo, bạn của Thái Ung đem vàng bạc sang chuộc về. Thái nữ là tác giả bài Bi phẫn thị. Trác nữ: chỉ Trác Văn Quân, con gái Trác Vương Tôn, người đời Hán, goá chồng về nhà. Gặp ngày Tư Mă Tương Như đến dự tiệc, thấy Trác Văn Quân, bèn gẩy khúc Phượng Cầu Hoàng quyến rũ. Trác Văn Quân bỏ nhà đi theo. Theo thời xưa hai người đàn bà này không giữ đúng lễ nghi phong tục thời đó. (2) Tu như kích: râu như mác. Sách Nam sử chép chuyện Chử Ngạn Hồi có câu: "Râu ông cứng như mác mà sao không có chí khí trượng phu", ư nói những người chỉ tốt mă bề ngoài kỳ thực vô tài. 164/249 Quế Lâm Cù Các Bộ Trung nguyên đại thế dĩ đồi đường,
Ông Cù Các Bộ Ở Quế Lâm Triều đại lớn Trung nguyên đă suy xụp,
Chú thích: Cù Các Bộ: Cù Thức Trĩ, tự Khởi Điền, người đời Minh, làm quan được tới chức Lâm Quế Bá. Lúc Măn Châu chiếm Trung Quốc, vua Minh chạy vào Vân Nam, ông ở lại giữ thành Quế Lâm (Quảng Tây). Thành bị vây hăm,Thức Trĩ chết theo thành. (1) Ư nói Thức Trĩ không chịu hàng phục người Măn Châu, vẫn để tóc dài, không chịu cạo đầu để đuôi sam. (2) Việt: ở đây chỉ các tỉnh Phúc Kiến, Quảnh Đông, Quảng Tây. 165/249 Quế Lâm Công Quán (*) Hoang thảo nhạ lưu huỳnh,
Công Quán Quế Lâm Đám cỏ hoang đom đóm lập ḷe,
(*) Nguyễn Du và đoàn sứ bộ Việt Nam đến Quế Lâm thuộc tỉnh lỵ Quảng Tây vào đầu tháng 6 năm Quí Dậu (1813). 166/249 Đề Vi, Lư Tập Hậu Thi nhân bất đắc kiến,
Đề Sau Tập Thơ Của Hai Ông Vi, Lư Nhà thơ không thấy nữa,
Chú thích: Vi: tức Vi Ứng Vật (755-832), nhà thơ Đường chịu ảnh hưởng của Đào Tiềm và Vương Duỵ. Lư: Lư Chiếu Lâm (637-690?), và Lư Đồng đều là nhà thơ Đường có tiếng. Ở đây không biết là tác giả muốn nói nhà thơ họ Đường nào. (1) Do câu: Từ thạch năng dẫn châm, hổ phách năng thân giới (đá nam châm hút kim khí, hổ phách hút hạt cải), ư nói những người tính t́nh hợp nhau th́ dễ thành bạn. (2) Việt ở Nam, Hồ ở Bắc, xa cách th́ khó mà thân nhau. (3) Tam Đường: Thịnh Đường, Trung Đường, và Văn Đường ở đời Đường. 167/249 Quá Thiên B́nh Phân thủy sơn tiền nhị thủy phân,
Qua Sông Thiên B́nh Trước núi Phân thủy sông chia đôi,
Chú thích: Thiên B́nh: theo câu đầu th́ Thiên B́nh là một trong hai con sông ở trước núi Phân Thủy. Núi này thuộc tỉnh Hồ Nam. Câu phía dước nói đến Tần, Sở, người viết chú thích đoán vậy chắc thuộc tỉnh Hồ Nam. 168/249 Vọng Tương Sơn Tự Cổ phật Vô lường Đường thế nhân, (1)
Ngắm Cảnh Chùa Tương Sơn Vị Đường tăng phật hiệu Vô lường,
Chú thích: (1) Vô lường: chỉ không hư, không lường đối với người đời, chỉ có Phật mới đo lường được. Ở đây chỉ Huyền Trang, người Đường, sang Ấn Độ thỉnh kinh, sau hóa Phật. (2) Chân thân: thân thể người tu đắc đạo. (3) Toàn Châu: nay là Toàn Hiệu, thuộc tỉnh Quảng Tâỵ Nguyễn Du từ Toàn Châu đến Trường Sa (Hồ Nam) ngày 18 tháng 7 năm Quư Dậu (1813). 169/249 Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu Cố Trạch Hành lĩnh phù vân Tiêu thủy ba,
Nhà Cũ Của Liễu Tử Hậu Ở Vĩnh Châu Mây ở núi Hành sóng sông Tiêu,
Chú thích: Bài thơ này nói về ông Liễu Tông Nguyên (773-819) tự Tử hậu. Thơ ông Liễu Tử Hậu hay nhưng không được trọng dùng, mà những kẻ nịnh vua thời đó lại được thảo chiếu của vua. 170/249 Tương Giang Dạ Bạc Nhất khứ lục thập lư,
Đêm Đậu Thuyền Trên Sông Tương Giang Đường đi sáu mươi dặm,
Chú thích: (1) Tương Giang: con sông bắt nguồn từ Quảng Tây chảy theo hướng Đông bắc vào tỉnh Hồ Nam, lúc đầu hợp với Ly Thủy gọi là Ly Tương, sau hợp với Tiêu Thủy thành Tiêu Tương, rồi chảy lên phía bắc huyện Hành Dương hợp với Chưng Thủy gọi là Chưng Tương (cho nên gọi là Tam Tương), sau chảy đến Trường Sa, vào Hồ Động Đ́nh. (2) Hạc lai: nhắc tích ông Phí Văn Huy cỡi hạc vàng lên tiên ở lầu Hoàng Hạc, lầu này ở phía tây nam huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc, gần vùng Tương Giang. 171/249 Tương Đàm Điếu Tam Lư Đại Phu Nhị thủ I Hiếu tu nhân khứ nhị thiên tải, (1)
Qua Tương Đàm Viếng Tam Lư Đại Phu
I Người hiếu tu sống cách hai ngh́n năm,
Chú thích: Tương Đàm (Trường Sa): tên một huyện tỉnh Hồ Nam. Tam lư đại phu: là chức tước của Khuất Nguyên người nước Sở đời Chiến Quốc. Khuất Nguyên là người tài giỏi lúc đầu được vua Sở tin dùng và thực thi chủ trương chính trị do ông đề xướng, nhưng sau v́ lới gièm pha của nịnh thần ông bị đầy đi Giang Nam. Ngày mồng 5 tháng 5 ông trẫm ḿnh ở Mịch La. (1) Hiếu tu nhân: người thích sửa sang đức tính tốt. (2) Thơ Khuất Nguyên có câu: "Bờ sông Nguyên có hoa chỉ, bờ sông Lễ có hoa lan." Ư muốn nói đến sự cao khiết. (3) Sở từ: thi ca người nước Sở, chỉ tác phẩm Ly Tao của Khuất Nguyên. (4) Ly Tao có câu:"Hái hoa Đỗ nhược ở băi thơm." Đỗ nhược là một loài cây giống sen, hoa màu trắng có 6 cánh. (5) Nguyên, Tương: Hai con sông thuộc tỉnh Hồ Nam. 172/249 Tương Đàm Điếu Tam Lư Đại Phu II Sở quốc oan hồn táng thử trung (1)
Qua Tương Đàm Viếng Tam Lư Đại Phu II Người nước Sở oan hồn chôn nơi đây,
Chú thích: (1) Sở quốc oan hồn: chỉ Khuất Nguyên. (2) Hiến lệnh: Khuất Nguyên làm pháp lệnh giúp Sở Hoài Vương. (3) Quốc phong: đây chỉ Kinh thi. (4) Thiên Ngư phủ có câu: "Mọi người say chỉ có một ḿnh ta tỉnh." (5) Khuất Nguyên có nói: "Lúc trẻ ta ham đồ phục sức lạ, gươm dài mũ cao", ư nói ḿnh trung trực khác người. (6) Tiêu lan: các thứ hoa Khuất Nguyên thường đeo, để tỏ ḷng cao khiết của ḿnh. Theo dẫn giải cũ th́ hai câu này ám chỉ thời sự, tức là chuyện quan trường nhà Nguyễn. 173/249 Phản Chiêu Hồn Hồn hề ! Hồn hề ! hồ bất qui?
Chống Bài Chiêu Hồn Hồn ơi! Hồn ơi! sao chẳng về? Chú thích: Chiêu hồn: một bài từ của Tống Ngọc, người cùng thời với Khuất Nguyên. Trong bài có nói Tống Ngọc thương Khuất Nguyên hồn phách sắp tiêu tan nên làm bài từ để gọi hồn cho sống lâu hơn. Nguyễn Du phản lại ư đó, ư muốn nói hồn không nên trở lại cơi trần gian có đầy những kẻ gian ác thâm hiểm. (1) Yên, Dĩnh (hay Sinh): Yên thuộc đất Sở, Dĩ nh là kinh đô nước Sở, cả hai đều thuộc tỉnh Hồ Bắc. (2) Cao, Qú: hai vị quan giỏi đời Ngu Thuấn. (3) Tam Hoàng: có thể theo thuyết đây là ba vị vua cổ nhất của Trung Quốc, đó là Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế. (4) Thái cực: cơi hư vô. (5) Thượng quan: tức Thượng quan Ngân Thượng là kẻ gièm pha để Sở Hoài Vương ruồng bỏ Khuất Nguyên. (6) Mịch La: con sông thuộc huyện Hồ Nam, nơi Khuất Nguyên gieo ḿnh xuống tự tử. 174/249 Biện Giả Bất thiệp Hồ Nam đạo,
Bác Giả Nghị Không qua đường Hồ Nam
Chú thích: Giả: là Giả nghị (201-169 trước C.N.) một vị quan đời Hán, v́ bị quan thần bài xích nên bị đổi đi làm thái phó ở Trường Sa. Khi đi qua sông Tương làm bài phú Viếng Khuất Nguyên, ngụ ư than thở cảnh ngộ ḿnh. (1) Hoài sa phú: là một trong chín bài đề Cửu Chương của Khuất Nguyên, tỏ ư Khuất Nguyên không muồn nh́n cảnh quốc gia bị mất nên quyết định tự tử ở sông Tương. (2) Trong bài phú Viếng Khuất Nguyên của Giả Nghị có câu có nghĩa đi t́m vua khác mà thờ, sao phải ôm lấy cố đô làm chi? Nguyễn Du bác bỏ ư này của Giả Nghị. 175/249 Trường Sa Giả Thái Phó Giáng Quán vơ nhân hà sở tri, (1)
Giả Thái Phó Đất Trường Sa Giáng, Quán quan vơ không hiểu nhiều,
Chú thích: Giả thái phó: tức Giả Nghị lúc c̣n gần vua Hán, có xin cải đổi chính sự nhưng bị hai quan vơ Giáng Quân và Quán Anh can gián vua, nên Giả Nghị mất trọng dụng và phải ra làm thái phó ở Trường Sa. (1) Giáng Quán: Giáng Hầu và Quán Anh. (2) Hiếu văn: tức Hán Văn Đế (179-159 trước công nguyên). (3) Lập đàn: đứng mà bàn việc. (4) Sự chức: làm hết chức vụ. Trong lúc Giả Nghị làm thái phó cho Lương Hoài Vương, Hoài Vương ngă ngựa chết. Giả Nghị buồn phiền nên sang năm sau thi chết lúc 33 tuổi. (5) Dị vật: chỉ chim phục (một loại chim cú), khi chim cú bay vào nhà và đậu ngay chỗ ngồi của Giả Nghị th́ ông cho là điềm gở, nhân đó làm bài Phục điểu phú để tự an ủi. (6) Tương đàm: tên huyện ở Hồ Nam, gần nơi Giả Nghị ở. Nơi này có sông Tương, phía thượng của sông gọi là Mịch La nơi Khuất Nguyên tự tử. Câu này có ư nói Giả Nghị có cùng một tâm sự như Khuất Nguyên, muốn cứu nước mà không được tin dùng; khi qua sông Tương, Giả Nghị làm bài phú điếu Khuất Nguyên để nói tâm sự ḿnh. 176/249 Sơ Thu Cảm Hứng I Tiêu tiêu mộc lạc Sở giang không,
Cảm Hứng Đầu Thu I Phơ phất lá rơi trên sông Sở,
Chú thích: (1) Ban Định Viễn: tức Ban Siêu, người đời Hán, chức vụ là Định viễn hầu, làm đô hộ Tây Vực 30 năm, sau đầu bạc về nước. (2) Ngọc Môn Quan: một của ải phía bắc Trung Quốc, thông sang nước Tây Vực. 177/249 Sơ Thu Cảm Hứng II Giang thượng tây phong mộc diệp hy,
Cảm Hứng Đầu Thu II Trên sông gió thổi lá cây thưa,
Chú thích: (1) Thanh thương điệu: âm điệu buồn. Thanh thương cũng có ngụ ư thu, v́ thương là một âm thuộc hành kim, mùa thu. 178/249 Sở Vọng Kinh, Tương thiên lư cổ danh đô, (1)
Trông Vời Đất Sở Kinh, Tương ngàn dặm tiếng thành cổ,
Chú thích: Sở là một quốc gia lớn đời Chiến Quốc. (1) Kinh, Tương: hai châu thuộc tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc. (2) Khuyết hăm: nơi đất nhiều sông hồ. Tam Ngô là Ngô Hưng, Ngô Quân, và Cối Kê, ba xứ thuộc đất Ngô thời Tam Quốc. Nay thuộc tỉnh Hố Bắc. (3) Tôn, Lưu: chuyện thời Tam Quốc, Tôn Quyền đ̣i đất Kinh Châu, Lưu Bị không chịu trả. 179/249 Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng Mộ Thiên cổ văn chương thiên cổ si (sư),
Mộ Đỗ Thiếu Lăng Ở Lỗi Dương Muôn đời văn chương ông bậc thầy,
Chú thích: Đỗ Thiếu Lăng: tức Đỗ Phủ (712-770), đại thi hào đời Đường. (1) Lỗi Dương: thuộc tỉnh Hồ Nam. Theo tiểu sử th́ Đỗ Phủ mất trên một con thuyền ở phía thượng du sông Tương. Lúc đầu hài cốt táng ở Nhạc Châu, sau hậu duệ mang cốt về Yển Sư, táng dưới núi Thú Dương, tỉnh Hà Nam. (2) Thu phố ngư long hữu sở ti: câu này Nguyễn Du lấy ư tứ hai câu thơ của Đổ Phủ trong bài Thu Hứng IV: Như long tịch mich thu giang lănh
(Cá rồng vắng vẻ sông thu lạnh.
Ư nói Đỗ Phủ (và cả Nguyễn Du) xa quê hương, đến mùa thu lại nhớ nhà. (3) Tiểu sử kể rằng về già Đỗ Phủ mắc nhiều bệnh lại điếc, nói chuyện với ai phải viết ra giấy, cánh tay phải tê liệt, lúc viết thư th́ con viết thay. Chứng lắc đầu có thể là triệu chứng của một bệnh thần kinh nào đó của Đỗ Phủ được nhà thơ đề cập đến trong thơ văn (?). |
Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần II
Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần III