Trịnh Nguyễn Đàm Giang Biên Soạn - Diễn Dịch Thơ
Thơ Chữ Hán
Nguyễn Du
Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần II
Bắc Hành Tạp Lục Phần III 215 Kinh Kha Cố Lư
215/249 Kinh Kha Cố Lư Bạch hồng quân nhật thiên man man
Làng Cũ Kinh Kha Cầu ṿng trắng hồng trong ánh dương
Chú thích: Kinh Kha : người nước Tề (Sơn Tây), dời sang nước Vệ (Trực Lệ), sau lại rời sang nước Yên (Hà Bắc). Làng cũ của Kinh Kha ở tỉnh này. (1) Dịch Thủy: một con sông ở tỉnh Hà Bắc. Lúc Kinh Kha ra đi, thái tử Đan và tân khách mặc áo trắng, đội mũ trắng, đưa đến sông Dịch. Khi uống rượu tiễn đưa, Cao Tiên Li thổi sáo, Kinh Kha hát một điệu bi tráng, mọi người đều rơi nước mắt. Đi được một đoạn Kinh Kha lại hát: Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn
Gió hiu hiu nước sông
Dịch lạnh
(Đàm Giang) (2) Vũ Dương: tức Vũ Tần Dương, dũng sĩ nước Yên đi theo Kinh Kha cầm hộp đựng bản đồ. (3) Thái tử Đan: thái tử nước Yên, bị nước Tần giữ làm con tin, sau trốn về. (4) Điền Quang: ông giới thiệu Kinh Kha với Thái tử Đan. Ông già rồi không đương được việc Thái tử Đan giao cho. Sau khi bàn chuyện với Kinh Kha, ông nói: “Tôi biết người trung hậu th́ không nên để kẻ khác nghi ngờ, nay Thái tử lại dặn tôi “ Đây là việc quốc gia đại sự nhà ngươi không nên tiết lộ, như thế là Thái tử ngờ vực tôi”. Rồi tự sát để kích thích Kinh Kha. (5) Phàn Ô Kỳ: tướng nước Tần v́ có tội trốn sang nước Yên, sau cho Kinh Kha mượn đầu để ra mắt vua Tần. (6) Tam liệt sĩ: tức Điền Quang, Phan Ô Kỳ và Kinh Kha. (7) Hàm dương thiên tử: chỉ vua Tần. (8) Ư nói cuộc khởi nghĩa của Trần Thắng và Ngô Khởi chống Tần. 216/249 Đế Nghiêu Miếu Thái hư nhất điểm đại quan chi
Miếu Thờ Vua Nghiêu Ông trời một điểm mà lớn ghê
Chú thích: (1) Đế Nghiêu: vị vua cổ đời
Đường, sau truyền ngôi lại cho vua Thuấn.
Nghiêu Thuấn tượng trưng cho các bậc vua giỏi
theo quan niệm của chế độ quân chủ.
(2) Nhắc việc vua
Nghiêu cần kiệm không thích trang sức.
(3) Nhất trung: khi truyền ngôi cho vua
Thuấn, vua Nghiêu nói: “Doăn chấp quyết trung”, nghĩa là
phải giữ đạo trung Cửu Nghi: tên một dăy núi
ở tỉnh Hồ Nam. Vua Thuấn mất và chôn ở đây.
Vua Nghiêu chôn ở Thành Dương (Sơn Đông). Ở
Cửu Nghi chỉ là miếu thờ.
(4) Hứa Do: tên một cao sĩ thời
cổ ở ẩn tại núi Cơ Sơn. Vua
Nghiêu muốn nhường thiên
hạ cho Hứa Do nhưng ông không nhận.
(5) Khi vua Nghiêu định nhường ngôi cho Hứa Do,
Hứa Do trả lời: “Ông làm vua thiên hạ đă b́nh
trị rồi, bây giờ bảo tôi thay thế th́ tôi v́ danh
à? Danh chỉ là khách mà thực mới là chủ”.
217/249
Lưu Linh Mộ
Lưu gia chi tử bất thành tài
Mộ Lưu Linh
Họ Lưu tài cán có ǵ hay
Chú thích:
Lưu Linh: người đới
Tấn, tự Bá Luân, thích uống rượu, không quan tâm đến
việc đời. Ông là một trong bảy người
hiền ở Trúc Lâm và là bạn của Kê hang, Nguyễn
Tịch; ông có làm bài Tửu Đức Tụng.
(1) Tử tiện mai: chết đâu chôn đó.
Lưu Linh thường ngồi xe hươu kéo, mang theo
một bầu rượu, sai người vác cuốc theo
sau và nói câu trên.
(2) Có bản chép Hà tự là Hà dĩ .
(3) Phù b́nh: bèo trôi nổi. trong bài Tửu Đức
Tụng của Lưu Linh có câu: “Việc đời như
cánh bèo trôi nổi trên sông Giang, sông Hán”.
218/249
Kỳ Lân Mộ
Hà Bắc đạo trung, ngũ xích phong bi đương đại
lộ
Mộ Kỳ Lân
Có một tấm bia năm thước trên đường đi
Hà Bắc
Chú thích:
(1) Vĩnh Lạc: niên hiệu Minh Thành Tổ
(1403-1424).
(2) Cống lân: con kỳ lân đem dâng vua.
Kỳ là con đực, Lân là con cái, gọi chung là kỳ
lân. Theo sách cổ. kỳ lân là giống linh thú, không giẫm
lên vật sống, không bẻ cành cây tươi, nên gọi
là giống thú có nhân, chỉ khi nào có thánh nhân th́ kỳ lân
mới xuất hiện. Do đó kỳ lân là điềm
lành báo hiệu thời thịnh trị.
(3) Yên Đê: Chu Đệ
là con thứ sáu Minh Thái Tổ, Chu Nguyên Chương
(1368-1398), Yên Đệ được cha phong cho
tước Vương ở đất Yên, tức là
tỉnh Trực Lệ ngày nay.
(4) (5) Yên Vương Đệ là Chú Minh Huệ Đế
(1399-1402) cướp ngôi cháu làm vua, gọi là Minh Thành
Tổ. Y sai đại thần là Phương Hiếu
Nhụ thảo chiếu lên ngôi. Hiếu Nhụ viết
bốn chữ lớn “Yên tặc thoán vị” (giặc Yên
cướp ngôi) rồi ném bút nói: “Chết th́ chết,
chiếu không thảo”. Đệ giận bảo: “Không
nghĩ đến chín họ sao?” (chín họ là tổ,
cố, ông, cha, bản thân, và con cháu chút chít). Nhụ
giận bảo: Dù giết
mười họ ta cũng không sợ”. Tức th́ Đệ
cho đánh tan xác và phanh thây Hiếu Nhụ rồi bắt
các học tṛ ông quy làm một họ, cộng thành
mười, đem giết hết.
(6) Minh Thành Tổ là một tên vua bạo tàn, thích gây
chiến để mở rộng đất đai, như
Nguyễn Trăi đă nói nhiều lần trong các bứa
thư ở tập Quân trung từ mệnh. Chính Minh THành
Tổ đă đă xâm lược nước Việt,
vơ vét vàng bạc, giết hại nhân dân, lại bắt
hàng vạn đinh tráng, phụ nữ và nhi đồng
giải về Trung Quốc, làm nô lệ và xây đắp
thành Bắc Kinh để dời kinh đô lên đó.
(7) Nguyễn Du mượn cái chết của con kỳ lân để nói lên ḷng căm
giận của ḿnh đối với tên bạo chúa ấy.
Trước ông trừ Nguyễn Trăi, ít có tác giả
Việt Nam nói rơ tội ác của Minh Thành Tổ, thậm
chí có người c̣n theo sử gia phong kiến Trung Quốc
cho hắn là vị vua anh hùng.
219/249
YểnThành, Nhạc Vũ Mục Ban Sư Xứ
Đương thời tằng trú Nhạc gia quân
Thành Yển, Nơi Nhạc Vũ Mục Rút Quân Về
Nơi này khi ấy Nhạc đóng quân
Bài này có sách biên soạn xếp cạnh bài Nhạc Vũ Mục Mộ
(200/249) có lẽ hợp lư hơn, nhưng v́ tài liệu biên soạn
này theo cách xếp của vài tác giả khác nên vẫn để
nguyên là bài 219/249 (Đàm Giang).
(1) Yển Thành: nơi Nhạc Phi đóng quân,
nay là tên huyện tỉnh Hà Nam. Nhạc Phi được
vua ban cho tên thụy là Vũ Mục.
(2) Quân Vương: chỉ Tống Cao Tông. Câu
này ư nói Cao Tông không c̣n nghĩ đến việc cha là Huy
Tông và anh là Khâm Tông bị quân Kim bắt.
Kim bài: lệnh của vua viết trên một cái thẻ bài bằng vàng. Tần
Cối muốn giảng ḥa với quân Kim nên
giả mạo lệnh vua trong
một ngày phát 12 đạo kim bài ra mặt trận
triệu Nhạc Phi về, rồi hạ ngục, giết đi.
(3) Phong Ba đ́nh: tên cái đ́nh trong ngục Đại
Lư Tự, nơi Nhạc Phi bị giết. Di tích này c̣n
ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang.
220/249
Đông Lộ
Thái Sơn sơn sắc măn Thanh, Từ (1)
Đường
Qua Hướng Đông
Thái Sơn sắc núi rợp Từ, Thanh
Chú thích:
Đông lộ : đường
đi qua phía đông. Khi trở về, đoàn sứ
nhận được lệnh thay đổi đường
đi, theo đường Sơn Đông, An Huy, Hồ
Bắc mà về Quảng Tây.
(1) Thái Sơn: dăy núi cao ở
phía bắc Trung Quốc, tỉnh Sơn Đông ở phía đông
núi ấy. Thanh, Từ là hai châu thuộc phần đất
tỉnh Sơn Đông.
(2) Sơn Đông: ở phía đông
bắc Trung Quốc, hạ du sông Hoàng Hà, ngày xưa là đất
Lỗ, nước Trâu, quê hương của Khổng
Tử, Mạnh Tử.
(3) Lỗ, Trâu: đương
thời nổi tiếng về văn học và giáo hóa.
(4) Đoàn sứ khởi hành về
nước cuối tháng mười năm 1813.
(5) Quy dư: về thôi.
Khổng tử chu du khắp các nước chư hầu,
không được vua nước nào tin dùng, nên than
rằng: “Quy dư! Quy dư !”. Ở đây nhà thơ
muốn mượn hai chữ này để tỏ ư
muốn về nước liền.
221/249
Quản Trọng Tam Qui Đài
Cựu đài nhân một thảo ly ly
Đài Tam Qui Của Quản Trọng
Đài xưa tan nát cỏ xanh xanh
Chú thích:
Quản Trọng :
người đời Xuân Thu, làm tướng giúp Hoàn Công
nước Tề gây nên nghiệp bá.
Tam Qui Đài : tên đài
Quản Trọng xây dựng, làm tốn rất nhiều công
sức của nhân dân. trong sách Luận Ngữ, Khổng
Tử có nói đến việc này và chê Quản Trọng xa xỉ.
(1) Bá: thời Xuân Thu có năm vua chư hầu làm nên nghiệp bá, Hoàn
Công nước Tề là một.
(2) Cửu Hợp: chín lần họp. Quản trọng giúp Tề Hoàn
Công trước sau họp chư hầu chín lần.
(3) Mạnh Tử có câu chê: “Quản
Trọng được vua tin dùng như thế, mà sự
nghiệp chỉ tầm thường có thế”.
(4) Hoa, Di: Hoa, văn minh chỉ
người Trung Quốc, Di, mọi rợ, chỉ các dân
tộc ở ngoài biên giới Trung Quốc. Quản
Trọng làm tướng, dùng chính sách tôn nhà Chu,đàn áp các
dân tộc ngoại biên giới. Khổng Tử có câu nói:
“Nếu không có Quản Trọng th́ ta đă phải gióc tóc,
khép vạt áo sang bên trái rồi”, nghĩa là đă hóa ra
mọi rợ rồi.
(5) Ở đây nhà thơ có ư nói:
“Ngày nay Trung Quốc đă thống nhất, không c̣n phân
biệt Hoa với Di như thời Quản Trọng
nữa."
Kê Khang Cầm Đài
Cầm Đài cổ tích kư Kê Khang (1)
Đài Gẩy Đàn Của Kê Khang
Cầm đài ghi lại chuyện Kê Khang
Chú thích:
(1) Kê Khang (223-263): Thúc Dạ một trong bẩy người hiền ở
Trúc Lâm, làm quan tán đại phu, thích Trang Lăo, hay đàn, hay rượu, thường
hái thuốc, du sơn trạch. Chung Hội có oán riên, nói xấu ông với Tư
Mă Chiêu. Ông bị hại. Chết lúc 40 tuổi. Lúc lâm h́nh, vẫn điềm nhiên,
thần sắc không thay đổi, lấy đàn gẫy khúc
Quảng lăng tán. Đàn xong nói: “Có kẻ xin học bài đàn
này, ta không dạy, thế là từ đây không c̣n ai có
thể đàn bài Quảng lăng này nữa”. Ông
người đất Trắc, nay thuộc tỉnh Hà Nam.
(2) Đông Tây Lưỡng Tấn: tức Tây Tấn và Đông Tấn.
(3) Hồ, Khương: hai dân
tộc ở phía tây bắc Trung Quốc. Năm 317, chính
quyền Tấn dời về phương nam th́ miền
bắc Trung Quốc bị các dân tộc tây bắc chia nhau
chiếm đóng, hoàn toàn lâm vào t́nh trạng hỗn loạn,
kéo dài 135 năm (304-439).
223/249
Đông A Sơn Lộ Hành
Đông A lộ xuất loạn sơn trung
Viết Ở Đường Núi Đông A
Đường Đông A dải núi trùng trùng
Chú thích:
Đông A: tên một huyện thuộc tỉnh Sơn Đông.
(1) Ẩn báo: con báo ẩn nấp. Theo Liệt
Nữ chuyện, vợ Đàøo Tháp Tử bảo chồng:
“Thiếp nghe nói trên núi Nam Sơn có con báo đen, trời
sương mù bảy ngày mà nó không xuống kiếm ăn là
nó muốn giữ ǵn bộ lông đẹp của nó”. Ư
muốn bảo chồng nên đi ẩn.
(2) Ṭng long: theo rồng, do lời Khổng
tử nói trong Kinh Dịch: “Vân ṭng long, phong ṭng hổ” (mây
theo rồng,gió theo hổ), ư nói mọi vật đều
theo các loài hợp với tính của nó. Về sau
người ta dùng ư này để chỉ việc gặp
gỡ giữa vua tôi.
224/249
Sở Bá Vương Mộ
Nhị thủ
I
Bạt sơn giang đỉnh nại thiên hà ? (1)
Mộ Sở Bá Vương I
Rời núi nhấc vạc trời chẳng trợ
Chú thích:
Sở Bá Vương: tức Hạng Vũ.
(1) Bạt Sơn Giang Đỉnh: nhổ núi,
nhắc vạc, chỉ sức mạnh vô địch
của Hạng Vũ.
(2) Bá Thượng: tên đất nay thuộc
tỉnh Thiểm Tây. Khi Bái Công tức Hán Cao Tổ ở đất
Bá Thượng, có đám mẩy nổi trên trời như
h́nh con rồng năm sắc; có người cho đó làm điềm
làm vua (thiên tử khí).
(3) Mỹ nhân ca: khi bị vây chặt ở đất
Cai Hạ, Hạng Vũ ngồi trong trướng nghe bài ca Ngu
cơ hát họa lại bài Ngu hề.
(4) Ư nhắc đến chuyện các nhà nho bàn
luận về việc Hạng Vũ sau khi thua ở Cai Hạ,
không chịu về Giang Đông.
(5) Trường Lăng: tên huyện thuộc
tỉnh Thiểm Tây. Mộ Hán Cao Tổ ở đấy.
(6) Xích mi: toán quân nông dân khởi nghĩa
thời Tây Hán. V́ sợ lẫn lộn với quân lính
của Vương Măng, nên họ bôi đỏ lông mày (xích
mi). Sau bị Hán Quang Vũ đàn áp.
225/249
Bá Vương Mộ II
Lộ bàng phiến thạch độc tranh vanh
Mộ Sở Bá Vương II
Tấm đá bên đường đứng tranh vanh
Chú thích:
(1) Ô Giang, Lỗ Thành: bị đánh thua ở
Cai Hạ, Hạng Vũ chạy đến bến Ô Giang,
người chèo thuyên khuyên trở về nước Sở
để gây lại lực lượng, nhưng Hạng
Vũ cho là tại trời mà thua nên tự thắt cổ
chết.
Lỗ Thành: nơi Hạng Vũ làm
bá chủ. Sau khi Hạng Vũ chết, các nơi đều
theo Hán Cao tổ, riêng nước Lỗ không chịu hàng,
Cao tổ sai đem đầu Hạng Vũ cho xem
nước ấy mới mở cửa thành xin hàng.
(2) Câu này nhắc lời Hạng Vũ nói ông ta
bị thua không phải v́ không biết đánh trận mà v́
trời làm.
(3) Câu này nhắc khi Hạng Vũ khi ở Cai
Hạ cảm khái làm thơ, ca lên mấy lần, Ngu cơ
họa theo. Hạng Vũ khóc chẩy nước mắt.
Tả hữu đều khóc.
(4) Hạng Vũ ở trong quân hay la thét, nay đă
chết nhưng nghe mưa gào gió thét, tưởng như
tiếng ông la thét khi xưa.
(5) Ngu thảo: tức là Ngu mỹ nhân thảo.
Ngu cơ là vợ Hạng Vũ, khi Vũ bị bao vây
ở Cai Hạ, nàng tự sát; thứ cỏ mọc trên
mộ nàng, người ta gọi là cỏ Ngu mỹ nhân. Tăng
tử cố trong bài vịnh nàng có câu “Tiên huyết hóa vi
nguyên thượng thảo” (Máu đào hóa làm cỏ trên băi).
226/249
Liễu Hạ Huệ Mộ
Ngô điếm kiều thông Tứ thủy ba (1)
Mộ Liễu Hạ Huệ
Dưới cầu Ngô Điếm, ḍng Tứ trôi
Chú thích:
Liễu Hạ Huệ: người nước
Lỗ, thời Xuân Thu chức sĩ sư, ba lần bị
truất vẫn không bỏ đi. Người ta hỏi lư
do, ông trả lời: “Lấy đạo ngay mà thờ
người, th́ hà tất phải rời quê cha đất
tổ”. Mạnh Tử bảo ông là “Thánh chi ḥa”. Ở đầu
cầu Ngô Điếm trên sông Tứ có ngôi mộ
của Liễu Hạ Huệ.
(1) Tứ thủy: tên một con sông bắt
nguồn từ Sơn Đông chảy qua tỉnh Giang Tô
rồi chảy vào sông Vận Hà.
(2) Lỗ: nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh
Sơn Đông, Ni Sơn là ngọn núi thuộc đia phân
nước Lỗ.
(3) Đạo Chích: em Liễu Hạ Huệ tên
là Chích, y là một tên cướp có tiếng nên gọi là Đạo
Chích.
227/249
Từ Châu Đạo Trung
Tang Càn nam hạ bạch vân đa (1)
Trên Đường Từ Châu
Sông Tang xuôi nam mây trắng đầy
Chú thích:
Từ Châu: ở phía bắc tỉnh Giang Tô.
(1) Tang Càn: hay Tang Kiền là con sông bắt nguồn từ tỉnh Sơn
Tây chảy vào tỉnh Hà Bắc.
(2) Có bản chép: bất kiến gia, không thấy nhà.
228/249
Nhị Sơ Cố Lư
Phù thế’ thao thao tử tuẫn danh
Làng Cũ Hai Ông Họ Sơ
Người đời nhan nhản chết v́ danh
Chú thích:
Nhị Sơ: đời nhà Hán, có Sơ Quảng và Sơ Thụ, hai chú cháu, cùng làm quan
đồng triều và cùng cáo quan về hưu một lúc, người đời khen là
cao thượng, không ham danh vị. Khi ra về, nhà vua tặng cho nhiều của cải,
ruộ ng vườn, hai ông chia cho bạn cũ hết, không để lại cho con cháu.
(1) Tiêu hiền phó: chỉ ông Tiêu Vọng Chi làm chức Thái phó đời Hán, bị
bọn hoạn quan đánh lừa tống ngục, phải tự tử.
229/249
Từ Châu Đê Thượng Vọng
Nhất hà nam bắc cổ tranh hành
Trên Đê Từ Châu Nh́n Ra
Một sông nam bắc giành giật nhau
Chú thích:
Từ Châu: một trong chín châu thời vua Vũ nhà Hạ, nay thuộc
phần đất tỉnh Giang Tô.
(1) Hí mă cựu đài: đài ở trường đua ngựa, tỉnh Giang
Tô. Thời nhà Tần, ông Lưu Dụ thường hội họp quan
khách ở đây để ngâm vịnh.
(2) Đoạn xà đại trạch: Hán Cao Tổ thuở hàn vi đi
qua đầm lớn ở đất Từ, thấy con rắn nằm
ngang đường liền rút gương chém chết. Sau người ta gọi đầm
ấy là “Đầm Chém Rắn”.
230/249
An Huy Đạo Trung
Đề nha á á loạn lăng thần
Dọc Đường Đi An Huy
Quạ kêu quạc quạc lúc rạng đông
Chú thích:
Nguyễn Du và đoàn sứ bộ đi qua tỉnh An Huy vào đầu
tháng 11 năm Quí Dậu (1813).
231/249
Á Phủ Mộ
Nhăn khan Bá Thượng ngũ vân phù (1)
Mộ Á Phủ
Bá Thượng mây năm màu đà thấy
Chú thích:
Á Phủ: tức Phạm Tăng.
Hạng Vũ tôn kính Phạm Tăng như cha,
thường gọi là Á phủ (dưới cha một
bậc, như chú). Trong bữa tiệc Hồng môn, Tăng
khuyên Hạng Vũ giết Lưu Bang. Hạng Vũ không
nghe, sau nghe bọn phản gián, nghi Tăng, tước
hết quyền lực. Tăng giận bỏ về, đến
Bành Thành ở huyện Đông Sơn, tỉnh Giang Tô) th́
bị nhiễm độc rồi chết.
(1) Bá Thượng: ở phía đông huyện
Trường An, tỉnh Thiểm Tây. Lưu Bang (Cao Hán
tổ) đóng quân ở đấy. Sử cũ chép:
Phạm Tăng bảo Hạng Vũ có mây năm sắc
nổi lên ở đất Bá Thượng, điềm báo
trước Lưu Bang sẽ được thiên hạ.
(2) Sở: chỉ Hạng Vũ, vua
nước Sở lúc bấy giờ.
232/249
Chu Lang Mộ
Thiêu tận Tào gia bách vạn binh (1)
Mộ Chu Lang
Hủy mất nhà Tào trăm vạn binh
Chú thích:
Chu Lang: tức Chu Du, mưu sĩ Đông Ngô.
(1) Tào Tháo đem trăm vạn quân xuống đánh Đông
Ngô, Chu Du liên kết với Khổng Minh đánh hỏa công,
Tào Tháo thua.
(2) Đồng niên: Chu Du với Tôn Sách là
bạn cùng một tuổi, lại có t́nh anh em rể.
(3) Tri âm: Khổng Minh chọc tức Chu Du ba lần, Chu Du uất mà
chết. Khổng Minh khóc Chu Du nhận là bạn tri âm.
(4) Nhị Kiều: Đại Kiều và Tiểu Kiều, hai chị em,
vợ Chu Du và Tôn Sách, nổi tiếng có sắc đẹp.
(5) Tào Tháo dựng đài Đồng Tước
ở bến sông Chương, định khi thu phục Đông
Ngô sẽ bắt hai nàng Kiều cho ở trong đài (Xem bài
số 87: Đồng Tước Đài).
233/249
Tổ Sơn Đạo Trung
Phong thụ lâm trung diệp loạn phi
Trên Đường Đi Tổ Sơn
Lá rừng phong bay vô định hướng
Chú thích:
(1) Xem bài số 80. Trở Binh Hành. V́ hai tỉnh Hà
Nam, Hà Bắc đói, dân nổi dậy nên đoán sứ
phải đi đường ṿng sang phía đông mà trở
về.
234/249
Quảng Tế Kư Thắng
Giang Nam, Hồ Bắc địa tương lân
Ghi Cảnh Đẹp Đất Quảng Tế
Giang Nam Hà Bắc đất giáp ranh
Chú thích:
Quảng Tế : tên một huyện thuộc tỉnh Hồ Bắc.
(1) Túc sương: tên một loài chim lông đẹp, da có
thể chế làm áo cừu. Chuyện Tây Kinh tạp chí
chép: Tư Mă Tương Như cùng vợ là Trác Văn
Quân về thành đô (Tứ Xuyên), nghèo túng, phải cầm
áo cừu túc sương lấy tiền mua rượu,
vợ chồng cùng uống cho đỡ buồn.
235/249
Đồ Trung Ngẫu Hứng
Sơn hạ kiều tùng, tùng hạ phần
Dọc Đường Chợt Hứng
Chân núi đầy thông dưới có mộ
Chú thích:
(1) Phục lạp: phục là tiết phục
mùa hạ, lạp là tiết chạp mùa đông, hai ngày
lễ của nhà nông thời cổ, người ta làm
lễ tế ở mồ mả gia tiên, khi tế
thường tưới rượu xuống đất, để
cầu thần dưới đất, cũng như dâng
hương để khói bốc cầu thần trên
trời.
236/249
Hoàng Châu Trúc Lâu
Hợp vi cự trúc biến giao cù
Lầu Trúc Ở Hoàng Châu
Trúc to trúc lớn bụi mọc đầy
Chú thích:
Hoàng Châu: tên đất, nay là huyện Hoàng Cương, tỉnh Hồ Bắc.
(1) Tiền nhân: người thời trước, chỉ ông Vương Vũ Xứng,
nhà thơ đời Tống, khi bị trích ở Hoàng Châu, có làm cái lầu bằng trúc tại
đây và làm bài thơ nhan đề là Hoàng Châu trúc lâu kư.
(2) Di văn: chỉ bài văn của Vương Vũ Xứng.
(3) Cách mưu tuế: tính việc năm sau.
Trong bài kư trên, tác giả có nói “Trong bốn năm phải
bôn tẩu không nghỉ, chưa biết sang năm lại đi
nơi nào, há sợ lầu trúc này dễ hỏng nát sao?”.
237/249
Vinh Khải Kỳ Thập Tuệ Xứ
Tam lạc nhân giai hữu (1)
Nơi Vinh Khải Kỳ Mót Lúa
(Thơ bẩy chữ)
Ba khoái cái vui của mọi người
(Thơ năm chữ)
Ba vui người đều có
Chú thích:
(1) Vinh Khải Kỳ: một
ẩn sĩ đời Xuân Thu. Sách Liệt tử chép:
Khổng tử đi chơi thấy Vinh Khải Kỳ
ở ngoài đồng, vừa đi vừa hát, bèn hỏi:
“Tiên sinh có điều ǵ vui mà hát thế?”. Vinh Khải
Kỳ đáp: “Tôi có rất nhiều điều vui; vui được
làm người quí hơn muôn vật; vui được làm
người đàn ông, quí hơn đàn bà; vui được
sống lâu 90 tuổi, không chết non. Đó là ba điều
vui vậy”.
Thập tuệ : mót lúa, cũng là tên một bài ca.
(2) Đông Sơn: tên núi thuộc tỉnh Chiết Giang trên đường
về của sứ bộ.
238/249
Mạnh Tử Từ Cổ Liễu
Ngô văn thiên tŕ chi phần hữu long yêu kiểu
Cây Liễu Cổ Trước Đền
Thờ Mạnh Tử
Truyền rằng ao trời có rồng uốn khúc
Chú thích:
Mạnh tử: người nước Trâu, phía nam tỉnh Sơn Đông
ngày nay. Ông đi khắp các nước tề, Lương,
Tống, Đằng, lúc già lại về nước, cùng
với học tṛ làm sách Mạnh Tử. Đền
thờ Mạnh Tử nói đây là ở Sơn Đông.
239/249
Từ Châu Dạ
Hành lộ tị can qua
Đêm Từ Châu
Tránh giặc trên đường lộ
Chú thích:
Từ Châu: ở phía tây bắc tỉnh Giang Tô.
240/249
Tiềm Sơn Đạo Trung
Túc hữu ái sơn tích
Đường Qua Núi Tiềm
Ta vốn tính yêu núi
Chú thích:
Tiềm Sơn: tên một dẫy núi thuộc huyện Tiềm Sơn, tỉnh An Huy.
241/249
Đào Hoa Đàm Lư Thanh Liên Cựu Tích
Đào hoa đàm thủy thiên xích thanh (1)
Đầm Đào Hoa, Dấu Tích Cũ Của Lư Thanh Liên
Đầm Đào Hoa ngh́n thước nước trong
Chú thích:
Lư Thanh Liên: tức Lư Bạch đời
Đường, tự xưng là Thanh Liên cư sĩ.
(1) Đào Hoa đàm: đầm Đào Hoa, ở tỉnh An Huy.
(2) Cung phụng: chức quan của Lư Bạch trong Viện Hàn lâm.
(3) Thập niên tửu tứ nhân gian thế:
câu thơ của Đỗ Phủ nói về Tư Mă
Tương Như, nghĩa là quăng đời mười năm
sống trong quán rượu.
(4) Thiên tử hô lai: Đường Huyền
tôn cho Cao Lực Sĩ đến gọi Lư Bạch vào cung
làm thơ. Lư Bạch đang say, phải vực lên
thuyền. Bài Ẩm trung bát tiên ca của Đỗ Phủ
có bốn câu:
Lư Bạch nhất đẩu thi bách thiên
Dịch:
Lư Bạch rượu nhiều th́ thơ hay
Đàm Giang
242/249
Đào Hoa Dịch Đạo Trung I
Nhị Thủ
Tiềm sơn bát bách lư
Trên Đường Trạm Đào Hoa I
Xa Tiềm Sơn tám trăm dặm trường
243/249
Đào Hoa Dịch Đạo Trung II
Kê khuyển xuất tang ma
Trên Đường Trạm Đào Hoa II
Chó gà chạy ra từ vườn dâu
244/249
Lương Chiêu Minh Thái Tử
Phân Kinh Thạch Đài
Đài Đá Phân Kinh của Thái Tử Lương Chiêu Minh
Nơi chia kinh của Thái tử Chiêu Minh
Chú thích:
(1) Lương Chiêu Minh Thái tử: Lương (502-556) là một
trong bốn triều vua thời Nam Triều (Tống, Lê,
Lương, Trần). Thái tử Chiêu Minh tên là Chiêu
Thống, con Lương Vũ đế (Chiêu Diên) (502-549).
Hai cha con đều sùng bái đạo Phật. Chiêu Minh c̣n
là tác giả bộ Văn tuyển.
(2) Kim Cương, Pháp Hoa: tên hai bộ kinh Phật.
(3) (4) Bạch mă, Sở lâm: hai câu này nói về tích Hầu Cảnh trước
là tướng Đông Ngụy, sau hàng Lương rồi lại phản Lương,
cưỡi ngựa trắng qua sông Trường Giang đánh Lương Vũ đế.
Khi Hầu Cảnh hàng Lương, Đông Ngụy đưa tờ hịch cho Lương,
có câu: “Sợ nước Sở mất vượn, họa lây đến cây rừng, cửa
thành cháy, vạ lây đến cá dưới ao”.
(5) Thế Tôn: chỉ Phật tổ; Linh Sơn: một ngọn núi ở Trung
Ấn Độ, nơi Thế Tôn giảng Pháp Hoa kinh.
(6) Hằng Hà: con sông ở Ấn Độ, hai bờ toàn cát. Hằng Hà sa số:
nhiều như cát sông Hằng, câu này sau trở thành một thành ngữ.
(7) Bồ đề bản vô thụ: lấy điển
ở một bài kệ: “Bồ đề bản vô
thụ, Minh kính diệc phi đài, Bản lai vô nhất
vật, Hà xứ nhạ trần ai ”. (Bồ đề
không phải ai, Minh kính không phải đài, Vốn không
phải một vật, Bụi bặm vướng vào đâu?).
(8) Vô tự kinh: kinh không chép bằng chữ. Ư nói đạo ở tâm chứ không
phải ở kinh kệ.
245/249
Tây Hà Dịch
Thanh thạch kiều tây ngạn
Trạm Tây Hà
Cầu đá xanh phía tây
Chú thích:
Tây Hà: ở phía đông Hoàng Sa,
nay là huyện Phần Dương, tỉnh Sơn Tây.
246/249
Sở Kiến Hành
Hữu phụ huề tam nhi
Những Điều Nh́n Thấy
Người mẹ dắt ba con
247/249
Hoàng Mai Sơn Thượng Thôn
Sơn hạ hữu tường tùng
Xóm Nhỏ Trên Núi Hoàng Mai
Chân núi có rặng thông
Chú thích:
Hoàng Mai: tên một dẫy núi ở tây bắc huyện Hoàng Mai, tỉnh Hồ Bắc.
(1) Vân ti: vân: bừa cỏ, ti: vun đất vào gốc lúa.
(2) Kỳ di: già trăm tuổi.
248/249
Hoàng Mai Đạo Trung
Ngô sơn hành dĩ biến (1)
Dọc Đường Hoàng Mai
Núi Ngô đi khắp cùng
Chú thích:
(1) Hoàng Mai: huyện Hoàng Mai tỉnh Hồ Bắc.
(2) Ngô: tức tỉnh Giang Tô ngày nay.
(3) Sở: tức Hồ Nam, Hồ Bắc.
(4) Hành Dương: Nhạc Dương thuộc tỉnh Hồ Nam.
(5) Động Đ́nh: thuộc tỉnh Hồ Nam. Ngày 29 tháng 3 năm
Giáp Tuất (1814) Nguyễn Du về đến Nam Quan.
249/249
Chu Phát
Khứ biến đông nam lộ
Thuyền Ra Đi
Hành tŕnh suốt đông nam
Chú thích:
(1) Nguyễn Du về đến Vơ Xương tỉnh Hồ Bắc giữa tháng
chạp năm Quí Dậu (1813), từ đấy lại theo đường
thủy mà về Nam quan.
(2) Hán khẩu: ở tỉnh Hồ Bắc, chỗ sông Hán chảy vào Trường
Giang.
(3) Hạc Lâu thành: nói về nhà thơ Đường Thôi Hiệu có làm
bài thơ nổi tiếng Hoàng Hạc lâu. Lầu Hoàng Hạc ở thành Vơ Xương
thuộc Vơ Hán, tỉnh Hồ Bắc, tương truyền có vị tiên cưỡi hạc
đến đó.
(4) Câu này lấy ở thơ Thôi Hiệu:
Bạch vân thiên tải không du du
Dịch xong 22 February 2004 |
Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần II