Thơ Chữ Hán Nguyễn Du III

Trịnh Nguyễn Đàm Giang

Biên Soạn - Diễn Dịch Thơ



Thơ Chữ Hán Nguyễn Du
Bắc Hành Tạp Lục - Phần III



Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần I

Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần II

Bắc Hành Tạp Lục Phần III

215    Kinh Kha Cố Lư
216    Đế Nghiêu Miếu
217    Lưu Linh Mộ
218    Kỳ Lân Mộ
219    YểnThành, Nhạc Vũ Mục Ban Sư Xứ
220    Đông Lộ
221    Quản Trọng Tam Qui Đài
222    Kê Khang Cầm Đài
223    Đông A Sơn Lộ Hành
224    Sở Bá Vương Mộ I
225    Sở Bá Vương Mộ II
226    Liễu Hạ Huệ Mộ
227    Từ Châu Đạo Trung
228    Nhị Sơ Cố Lư
229    Từ Châu Đê Thượng Vọng
230    An Huy Đạo Trung
231    Á Phủ Mộ
232    Chu Lang Mộ
233    Tổ Sơn Đạo Trung
234    Quảng Tế Kư Thắng
235    Đồ Trung Ngẫu Hứng
236    Hoàng Châu Trúc Lâu
237    Vinh Khải Kỳ Thập Tuệ Xứ
238    Mạnh Tử Từ Cổ Liễu
239    Từ Châu Dạ
240    Tiềm Sơn Đạo Trung
241    Đào Hoa Đàm Lư Thanh Liên Cựu Tích
242    Đào Hoa Dịch Đạo Trung I
243    Đào Hoa Dịch Đạo Trung II
244    Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài
245    Tây Hà Dịch
246    Sở Kiến Hành
247    Hoàng Mai Sơn Thượng Thôn
248    Hoàng Mai Đạo Trung
249    Chu Phát


215/249

Kinh Kha Cố Lư

Bạch hồng quân nhật thiên man man
Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn (1)
Ca thanh khẳng khái kim thanh liệt
Kinh Kha tông thử nhập Tần quan
Nhập Tần quan hề, tŕ chủy thủ
Lục quốc thâm cừu nhất dẫn thủ
Điện thượng thốt nhiên nhất chấn kinh
Tả hữu thủ bác vương hoàn trụ
Giai hạ Vũ Dương như tử nhân (2)
Thần dũng nghị nhiên duy độc quân
Túng nhiên bất sát Tần hoàng đế
Dă toán cổ kim vô tỉ luân
Quái để hành tung nguyên thị ẩn
Tằngdữ Yên Đan vô túc phận (3)
Sát thân chỉ vị thu nhân tri
Đồ đắc Điền Quang khinh nhất vẫn (4)
Khả liên vô cô Phàn Ô Kỳ (5)
Dĩ đầu tá nhân vô hoàn th́
Nhát triêu uổng sát tam liệt sĩ (6)
Hàm dương thiên tử chung nguy nguy (7)
Yên giao nhất vọng giai trần thổ
Thu nhật thu phong măn quan lộ
Thị thượng ca thanh bất phục văn
Dịchthủy ba lưu tự kim cổ
Cố lư chỉ cức tung phục hoành
Chỉ hữu tàn bi do vị khuynh
Mạc đạo chủy thủ cánh vô tế
Yết can trảm mộc vi tiên thanh (8)

Làng Cũ Kinh Kha

Cầu ṿng trắng hồng trong ánh dương
Gió hiu hiu lạnh nước sông Dịch
Tiếng ca vàng sắt chứa kiêu hùng
Ải Tần Kinh Kha đà tới nơi
Vào ải Tần dao găm thủ dắt
Sáu nước thù sâu một nhát đâm
Điện trên bỗng nhiên phát kinh hoàng
Tả hữu tay không vua ṿng cột
Dưới thềm Vũ Dương đứng chết trân
Oai dũng vẫn hiên ngang một ḿnh
Dù chẳng giết được Tần Hoàng đế
Muôn đời có sai sánh kịp đâu
Nghĩ cũng lạ kẻ ẩn chợ đời
Đối với Yên Đan chẳng phận ǵ
Liều chết chỉ v́ có người hiểu
Uổng cho Điền Quang đă tự vẫn
Thương cho vô tội Phạm Ô Kỳ
Cho mượn đầu, chẳng lấy được về
Một sớm ba nghĩa sĩ chết uổng
Mà vua Tần Hàm Dương vẫn nguyên
Nay đất vùng Yên phủ cát bụi
Nắng thu gió thu vẫn đầy đường
Tiếng ca giữa chợ mất đâu rồi
Nước sông Dịch xuôi ḍng trôi măi
Làng cũ cỏ gai mọc tứ tung
Chỉ một tấm bia c̣n lưu lại
Chớ nói mũi dao không nên chuyện
Dựng cờ khởi nghĩa nó mở đầu !

Chú thích:

Kinh Kha :   người nước Tề (Sơn Tây), dời sang nước Vệ (Trực Lệ), sau lại rời sang nước Yên (Hà Bắc). Làng cũ của Kinh Kha ở tỉnh này.

(1) Dịch Thủy:   một con sông ở tỉnh Hà Bắc. Lúc Kinh Kha ra đi, thái tử Đan và tân khách mặc áo trắng, đội mũ trắng, đưa đến sông Dịch. Khi uống rượu tiễn đưa, Cao Tiên Li thổi sáo, Kinh Kha hát một điệu bi tráng, mọi người đều rơi nước mắt. Đi được một đoạn Kinh Kha lại hát:

Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn
Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục phản.

Gió hiu hiu nước sông Dịch lạnh
Tráng sĩ một đi không trở về.

(Đàm Giang)

(2) Vũ Dương: tức Vũ Tần Dương, dũng sĩ nước Yên đi theo Kinh Kha cầm hộp đựng bản đồ.

(3) Thái tử Đan: thái tử nước Yên, bị nước Tần giữ làm con tin, sau trốn về.

(4) Điền Quang: ông giới thiệu Kinh Kha với Thái tử Đan. Ông già rồi không đương được việc Thái tử Đan giao cho. Sau khi bàn chuyện với Kinh Kha, ông nói: “Tôi biết người trung hậu th́ không nên để kẻ khác nghi ngờ, nay Thái tử lại dặn tôi “ Đây là việc quốc gia đại sự nhà ngươi không nên tiết lộ, như thế là Thái tử ngờ vực tôi”. Rồi tự sát để kích thích Kinh Kha.

(5) Phàn Ô Kỳ: tướng nước Tần v́ có tội trốn sang nước Yên, sau cho Kinh Kha mượn đầu để ra mắt vua Tần.

(6) Tam liệt sĩ: tức Điền Quang, Phan Ô Kỳ và Kinh Kha.

(7) Hàm dương thiên tử: chỉ vua Tần.

(8) Ư nói cuộc khởi nghĩa của Trần Thắng và Ngô Khởi chống Tần.

216/249

Đế Nghiêu Miếu

Thái hư nhất điểm đại quan chi
Thiên địa vô công vạn vật ty (tư)
Tại nhật mao từ do bất tiễn   (1)
Hậu thân hương hỏa cánh hà vi ?
Nhấttrung tâm pháp khai quần đế (2)
Thiên cổ sùng từ đối Cửu nghi   (3)
Tằng hướng Hứa Do nhượng thiên hạ (4)
Thánh nhân danh thực hữu thùy tri ? (5)

Miếu Thờ Vua Nghiêu

Ông trời một điểm mà lớn ghê
Không công trời đất vẫn phủ phê
Khi sống cỏ tranh chẳng muốn xén
Mai sau hương lửa thờ cũng chê
Một ḷng quyết phải truyền đạo trung
Cửu nghi muôn thuở một miếu thờ
Mang tặng Hứa Do cả dân đó
Bực thánh thực danh ai cũng biết

Chú thích:

(1)   Đế Nghiêu: vị vua cổ đời Đường, sau truyền ngôi lại cho vua Thuấn. Nghiêu Thuấn tượng trưng cho các bậc vua giỏi theo quan niệm của chế độ quân chủ.

(2) Nhắc việc vua Nghiêu cần kiệm không thích trang sức.

(3)   Nhất trung: khi truyền ngôi cho vua Thuấn, vua Nghiêu nói: “Doăn chấp quyết trung”, nghĩa là phải giữ đạo trung Cửu Nghi: tên một dăy núi ở tỉnh Hồ Nam. Vua Thuấn mất và chôn ở đây. Vua Nghiêu chôn ở Thành Dương (Sơn Đông). Ở Cửu Nghi chỉ là miếu thờ.

(4)   Hứa Do: tên một cao sĩ thời cổ ở ẩn tại núi Cơ Sơn. Vua Nghiêu muốn nhường thiên hạ cho Hứa Do nhưng ông không nhận.

(5) Khi vua Nghiêu định nhường ngôi cho Hứa Do, Hứa Do trả lời: “Ông làm vua thiên hạ đă b́nh trị rồi, bây giờ bảo tôi thay thế th́ tôi v́ danh à? Danh chỉ là khách mà thực mới là chủ”.

217/249

Lưu Linh Mộ

Lưu gia chi tử bất thành tài
Hà sáp dương ngôn tử tiện mai (1)
Túy lư dĩ năng tề vạn vật
Tử thời hà tất niệm di hài ?
Thiên niên cổ mộ trường kinh cức
Vạn lư quan đạo đa phong ai
Hà tự thanh tinh khan thế sự (2)
Phù b́nh nhiễu nhiễu cánh kham ai (3)

Mộ Lưu Linh

Họ Lưu tài cán có ǵ hay
Rằng chết th́ cứ cuốc chôn sâu
Say ngất vạn vật nào có khác
Chết rồi sao c̣n lo liệm thây
Mộ cũ ngàn năm đầy gai góc
Muôn dặm đường quan gió bụi đầy
Chi bằng cứ tỉnh xem thời thế
Bèo trôi vờ vật nghĩ thương thay !

Chú thích:

Lưu Linh: người đới Tấn, tự Bá Luân, thích uống rượu, không quan tâm đến việc đời. Ông là một trong bảy người hiền ở Trúc Lâm và là bạn của Kê hang, Nguyễn Tịch; ông có làm bài Tửu Đức Tụng.

(1)  Tử tiện mai: chết đâu chôn đó. Lưu Linh thường ngồi xe hươu kéo, mang theo một bầu rượu, sai người vác cuốc theo sau và nói câu trên.

(2)  Có bản chép Hà tự là Hà dĩ .

(3)  Phù b́nh: bèo trôi nổi. trong bài Tửu Đức Tụng của Lưu Linh có câu: “Việc đời như cánh bèo trôi nổi trên sông Giang, sông Hán”.

218/249

Kỳ Lân Mộ

Hà Bắc đạo trung, ngũ xích phong bi đương đại lộ
Trung hữu khải tự đại thư: “Kỳ lân mộ”
Đạo bàng cố lăo vị dư ngôn:
“Vĩnh lạc tứ niên cống lân đạo tử, táng thử thổ (1, 2)
Quan mệnh lập bi dụng tồn cố ”
Thử sự hất kim dĩ kinh cổ
Đăn kiếm quang đạo đăng đăng vô khâu lăng
Kỳ bàng bất phong diệc bất thụ
Phiến thạch khuynh khi đài tiễn man
Thê phong triêu xuy, mộ khổ vũ !
Hu ta! lân hề, hà do đổ ?
Hu ta! lânhề, thiên thượng tường  !
Cốtnhục ủy chi trùng nghĩ đố
Lânhề, lân hề, nhĩ hà khổ?
Hàhuống Yên Đệ hà như nhân ? (3)
Đoạt điệt tự lập phi nhân quân
Bạo nộ nhất sính di nhập tộc  (4)
Đại bổng cự hoạch phanh trung thần (5)
Ngũ niên sở sát bách dư vạn (6)
Bạch cốt thành sơn địa huyết ân !
Lân hề, quả vị thử nhân xuất
Đại thị yêu vật, hà túc trân
Hoặc thị nhĩ sinh bất nhẫn kiến sát lục
Tiên tựu thử địa quyên kỳ thân
Hu ta! nhân thú hề, kỳ lân !
Ư thế bất kiến dĩ vi tường
Kiến chi bất quá đồng khuyển dương
Nhược đạo năng vị thánh nhân xuất
Đương thế hà bất Nam du tường ? (7)

Mộ Kỳ Lân

Có một tấm bia năm thước trên đường đi Hà Bắc
Trên bia hàng chữ lớn ghi :”Mộ Kỳ Lân”
Ông lăo cùng đường có lời cùng ta rằng
“Đời Vĩnh Lạc năm thứ tư lân cống chết đường chôn nơi đó
Lệnh quan lập bia nhắc rơ chuyện này”
Chuyện ấy đến nay đă quá xưa
Nay đường bằng phẳng không g̣ đống
Cạnh bia không mộ chẳng cỏ cây
Phiến đá đổ nghiêng phủ rêu đầy
Sáng gió chiều lạnh lại hứng mưa
Hỡi Kỳ lân! Kỳ lân đâu ḱa ?
Hỡi Kỳ lân ! Vật trời báo điềm lành
Mà nay xác để kiến sâu đục khoét
Lân hỡi! Lân hỡi! Sao mi khổ thế
Huống ǵ Yên Đệ là người ra sao?
Cướp ngôi cháu đâu phải vua của dân
Cơn giận bốc giết ngay cả mười họ
Vạc người trượng đánh hại trung thần
Trong năm năm giết trăm vạn mạng người
Xương trắng chất núi, huyết thấm đất
Hỡi Kỳ lân! Nếu mi hiện v́ loại người ấy
Mi chỉ là loài yêu quái quư làm chi
Hoặc giả mi không muốn sống nh́n chém giết
Nên đến chỗ này đành chết cho xong
Than ôi! Lân là giống thú có ḷng nhân
V́ hiếm có nên gặp cho là điềm lành
Thấy thường th́ bất quá cũng cùng loài dê chó
Nếu bảo v́ thánh nhân mà xuất hiện
Th́ sao lân không xuống dạo phương Nam ?

Chú thích:

(1)  Vĩnh Lạc: niên hiệu Minh Thành Tổ (1403-1424).

(2)  Cống lân: con kỳ lân đem dâng vua. Kỳ là con đực, Lân là con cái, gọi chung là kỳ lân. Theo sách cổ. kỳ lân là giống linh thú, không giẫm lên vật sống, không bẻ cành cây tươi, nên gọi là giống thú có nhân, chỉ khi nào có thánh nhân th́ kỳ lân mới xuất hiện. Do đó kỳ lân là điềm lành báo hiệu thời thịnh trị.

(3)  Yên Đê: Chu Đệ là con thứ sáu Minh Thái Tổ, Chu Nguyên Chương (1368-1398), Yên Đệ được cha phong cho tước Vương ở đất Yên, tức là tỉnh Trực Lệ ngày nay.

(4) (5)  Yên Vương Đệ là Chú Minh Huệ Đế (1399-1402) cướp ngôi cháu làm vua, gọi là Minh Thành Tổ. Y sai đại thần là Phương Hiếu Nhụ thảo chiếu lên ngôi. Hiếu Nhụ viết bốn chữ lớn “Yên tặc thoán vị” (giặc Yên cướp ngôi) rồi ném bút nói: “Chết th́ chết, chiếu không thảo”. Đệ giận bảo: “Không nghĩ đến chín họ sao?” (chín họ là tổ, cố, ông, cha, bản thân, và con cháu chút chít). Nhụ giận bảo: Dù giết mười họ ta cũng không sợ”. Tức th́ Đệ cho đánh tan xác và phanh thây Hiếu Nhụ rồi bắt các học tṛ ông quy làm một họ, cộng thành mười, đem giết hết.

(6)  Minh Thành Tổ là một tên vua bạo tàn, thích gây chiến để mở rộng đất đai, như Nguyễn Trăi đă nói nhiều lần trong các bứa thư ở tập Quân trung từ mệnh. Chính Minh THành Tổ đă đă xâm lược nước Việt, vơ vét vàng bạc, giết hại nhân dân, lại bắt hàng vạn đinh tráng, phụ nữ và nhi đồng giải về Trung Quốc, làm nô lệ và xây đắp thành Bắc Kinh để dời kinh đô lên đó.

(7)  Nguyễn Du mượn cái chết của con kỳ lân để nói lên ḷng căm giận của ḿnh đối với tên bạo chúa ấy. Trước ông trừ Nguyễn Trăi, ít có tác giả Việt Nam nói rơ tội ác của Minh Thành Tổ, thậm chí có người c̣n theo sử gia phong kiến Trung Quốc cho hắn là vị vua anh hùng.

219/249

YểnThành, Nhạc Vũ Mục Ban Sư Xứ

Đương thời tằng trú Nhạc gia quân
Thử địa kinh kim hữu chiến trần
Đại tướng không hoài bang quốc sỉ
Quân vương dĩ tuyệt phụ huynh thân (1)
Kim bài thập nhi hữu di hận (2)
Thiết kỵ tam thiên không mộ vân
Huyết chiến thập niên thành để sự
Phong Ba đ́nh hạ tạ Kim nhân (3)

Thành Yển, Nơi Nhạc Vũ Mục Rút Quân Về

Nơi này khi ấy Nhạc đóng quân
Bao thời tung bay cát bụi trần
Tướng tài hoài công đành ôm nhục
Vua đà quên cả cha anh thân
Mười hai kim bài để lại hận
Ba ngh́n ngựa sắt nay c̣n mây
Mười năm tranh đấu công nghiệp hủy
Đ́nh Phong Ba bị giết tạ người Kim

Chú thích:

Bài này có sách biên soạn xếp cạnh bài Nhạc Vũ Mục Mộ (200/249) có lẽ hợp lư hơn, nhưng v́ tài liệu biên soạn này theo cách xếp của vài tác giả khác nên vẫn để nguyên là bài 219/249 (Đàm Giang).

(1)  Yển Thành: nơi Nhạc Phi đóng quân, nay là tên huyện tỉnh Hà Nam. Nhạc Phi được vua ban cho tên thụy là Vũ Mục.

(2)  Quân Vương: chỉ Tống Cao Tông. Câu này ư nói Cao Tông không c̣n nghĩ đến việc cha là Huy Tông và anh là Khâm Tông bị quân Kim bắt.

Kim bài: lệnh của vua viết trên một cái thẻ bài bằng vàng. Tần Cối muốn giảng ḥa với quân Kim nên giả mạo lệnh vua trong một ngày phát 12 đạo kim bài ra mặt trận triệu Nhạc Phi về, rồi hạ ngục, giết đi.

(3)  Phong Ba đ́nh: tên cái đ́nh trong ngục Đại Lư Tự, nơi Nhạc Phi bị giết. Di tích này c̣n ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang.

220/249

Đông Lộ

Thái  Sơn sơn sắc măn Thanh, Từ (1)
Thiên lư Sơn Đông túng mục sơ (2)
Hà xứ thánh hiền tùng bách hạ
Biệt thành huyền tụng Lỗ, Trâu dư (3)
Tha hương nhan trạng tần khai kính
Khách lộ trần ai bán độc thư
Hành sắc thông thông tuế vân mộ (4)
Bất câm bằng thức thán “Qui dư” (5)

Đường Qua Hướng Đông

Thái Sơn sắc núi rợp Từ, Thanh
Sơn Đông phóng mắt trải dặm ngàn
Đâu chốn tùng bách thánh hiền ở ?
Lỗ Trâu đàn sách c̣n như vang
Xa nhà soi gương nh́n mặt cọm
Đường buồn đọc sách nửa thời gian
Hành tŕnh vội vội năm sắp hết
“Về thôi” buồn bă vịn xe than

Chú thích:

Đông lộ : đường đi qua phía đông. Khi trở về, đoàn sứ nhận được lệnh thay đổi đường đi, theo đường Sơn Đông, An Huy, Hồ Bắc mà về Quảng Tây.

(1) Thái Sơn: dăy núi cao ở phía bắc Trung Quốc, tỉnh Sơn Đông ở phía đông núi ấy. Thanh, Từ là hai châu thuộc phần đất tỉnh Sơn Đông.

(2) Sơn Đông: ở phía đông bắc Trung Quốc, hạ du sông Hoàng Hà, ngày xưa là đất Lỗ, nước Trâu, quê hương của Khổng Tử, Mạnh Tử.

(3) Lỗ, Trâu: đương thời nổi tiếng về văn học và giáo hóa.

(4) Đoàn sứ khởi hành về nước cuối tháng mười năm 1813.

(5) Quy dư: về thôi. Khổng tử chu du khắp các nước chư hầu, không được vua nước nào tin dùng, nên than rằng: “Quy dư! Quy dư !”. Ở đây nhà thơ muốn mượn hai chữ này để tỏ ư muốn về nước liền.

221/249

Quản Trọng Tam Qui Đài

Cựu đài nhân một thảo ly ly
Tằng dĩ Hoàn Công bá nhất th́ (1)
Quận huyện thành trung không cửu hợp (2)
Môi đài thạch thượng kư “Tam qui”
Tại triều xảo dữ quân tâm hợp
Một. thế chung liên tướng nghiệp ti (3)
Hỉ trị thánh triều công phú đảo
Văng lai đài hạ tạp Hoa Di (4)

Đài Tam Qui Của Quản Trọng

Đài xưa tan nát cỏ xanh xanh
Từng giúp Hoàn Công một thời danh
Huyện họp chín lần c̣n đâu nữa
“Tam qui” rêu đá ghi rành rành
Trong triều khéo ư được vua ưa
Chết rồi chỉ mang một tiếng xoàng
Mừng triều vua Thánh dầy ơn đức
Hoa Di cùng tấp nập dưới đài

Chú thích:

Quản Trọng : người đời Xuân Thu, làm tướng giúp Hoàn Công nước Tề gây nên nghiệp bá.

Tam Qui Đài : tên đài Quản Trọng xây dựng, làm tốn rất nhiều công sức của nhân dân. trong sách Luận Ngữ, Khổng Tử có nói đến việc này và chê Quản Trọng xa xỉ.

(1) : thời Xuân Thu có năm vua chư hầu làm nên nghiệp bá, Hoàn Công nước Tề là một.

(2) Cửu Hợp: chín lần họp. Quản trọng giúp Tề Hoàn Công trước sau họp chư hầu chín lần.

(3) Mạnh Tử có câu chê: “Quản Trọng được vua tin dùng như thế, mà sự nghiệp chỉ tầm thường có thế”.

(4) Hoa, Di: Hoa, văn minh chỉ người Trung Quốc, Di, mọi rợ, chỉ các dân tộc ở ngoài biên giới Trung Quốc. Quản Trọng làm tướng, dùng chính sách tôn nhà Chu,đàn áp các dân tộc ngoại biên giới. Khổng Tử có câu nói: “Nếu không có Quản Trọng th́ ta đă phải gióc tóc, khép vạt áo sang bên trái rồi”, nghĩa là đă hóa ra mọi rợ rồi.

(5) Ở đây nhà thơ có ư nói: “Ngày nay Trung Quốc đă thống nhất, không c̣n phân biệt Hoa với Di như thời Quản Trọng nữa."


222/249

Kê Khang Cầm Đài

Cầm Đài cổ tích kư Kê Khang (1)
Nhân tư’ cầm vong đài diệc hoang
Văn vơ thất huyền chung tịch tịch
Đông tây Lưỡng Tấn diệc mang mang  (2)
Chí kim bất hủ duy đồng tính
Thử hậu hà nhân đáo túy hương ?
Thán tức Quảng lăng huyền tuyệt hậu
T́ bà tân phổ bán Hồ Khương (3)

Đài Gẩy Đàn Của Kê Khang

Cầm đài ghi lại chuyện Kê Khang
Người chết đàn mất đài bỏ hoang
Văn vũ bẩy giây nay lặng ngắt
Đông tây hai Tấn c̣n đâu mang
Tính trẻ ngày xưa vẫn c̣n đây
Thời sau mấy kẻ đến làng say ?
Buồn thay tiếng đàn Quảng Lăng dứt
T́ bà điệu mới nửa Khương Hồ

Chú thích:

(1) Kê Khang (223-263): Thúc Dạ một trong bẩy người hiền ở Trúc Lâm, làm quan tán đại phu, thích Trang Lăo, hay đàn, hay rượu, thường hái thuốc, du sơn trạch. Chung Hội có oán riên, nói xấu ông với Tư Mă Chiêu. Ông bị hại. Chết lúc 40 tuổi. Lúc lâm h́nh, vẫn điềm nhiên, thần sắc không thay đổi, lấy đàn gẫy khúc Quảng lăng tán. Đàn xong nói: “Có kẻ xin học bài đàn này, ta không dạy, thế là từ đây không c̣n ai có thể đàn bài Quảng lăng này nữa”. Ông người đất Trắc, nay thuộc tỉnh Hà Nam.

(2) Đông Tây Lưỡng Tấn: tức Tây Tấn và Đông Tấn.

(3) Hồ, Khương: hai dân tộc ở phía tây bắc Trung Quốc. Năm 317, chính quyền Tấn dời về phương nam th́ miền bắc Trung Quốc bị các dân tộc tây bắc chia nhau chiếm đóng, hoàn toàn lâm vào t́nh trạng hỗn loạn, kéo dài 135 năm (304-439).

223/249

Đông A Sơn Lộ Hành

Đông A lộ xuất loạn sơn trung
Vạn thụ tùng sam nhất kính thông
Giảnvụ tự sinh nghi ẩn báo (1)
Khê vân vô sự lăn ṭng long (2)
Khâu lăng xứ xứ lưu tiền đại
Tang giá gia gia cận cổ phong
Tiếu ngă bạch đầu mang bất liễu
Nghiêm hàng nhất lộ quá Sơn Đông

Viết Ở Đường Núi Đông A

Đường Đông A dải núi trùng trùng
Muôn gốc tùng sam một lối thông
Sương núi bốc lên báo ưa ẩn
Mây trôi lăng đăng biếng theo rồng
Cồn g̣ đằng đẵng lưu đời trước
Dâu gai nhà nhà vẫn nếp xưa
Cười ḿnh đầu bạc c̣n bôn bả
Lần dần đường lạnh đến Sơn Đông

Chú thích:

Đông A: tên một huyện thuộc tỉnh Sơn Đông.

(1)  Ẩn báo: con báo ẩn nấp. Theo Liệt Nữ chuyện, vợ Đàøo Tháp Tử bảo chồng: “Thiếp nghe nói trên núi Nam Sơn có con báo đen, trời sương mù bảy ngày mà nó không xuống kiếm ăn là nó muốn giữ ǵn bộ lông đẹp của nó”. Ư muốn bảo chồng nên đi ẩn.

(2)  Ṭng long: theo rồng, do lời Khổng tử nói trong Kinh Dịch: “Vân ṭng long, phong ṭng hổ” (mây theo rồng,gió theo hổ), ư nói mọi vật đều theo các loài hợp với tính của nó. Về sau người ta dùng ư này để chỉ việc gặp gỡ giữa vua tôi.

224/249

Sở Bá Vương Mộ

Nhị thủ

I

Bạt sơn giang đỉnh nại thiên hà ?  (1)
Túc hậu du du kư thiển sa
Bá thượng dữ thành thiên tử khí  (2)
Trướng trung không thính mỹ nhân ca (3)
Nhăn tiền phiến thạch anh hùng tại
Sự hậu quần nho khẩu thiệt đa (4)
Dục mịch Trường lăng nhất phôi thổ
Xích my loạn hậu biến bồng ma (5)

Mộ Sở Bá Vương I

Rời núi nhấc vạc trời chẳng trợ
Cánh hận chan chan phủ cát mờ
Đất Bá khí thiên tử đă hiện
Trong trướng nghe người đẹp hát lời
Rơ mặt anh hùng đá c̣n đây
Chuyện sau nhà nho nói nhiều rồi
Nấm đất Trường Lang dù muốn kiếm
Xích mi sau loạn c̣n cỏ thôi

Chú thích:

Sở Bá Vương: tức Hạng Vũ.

(1)  Bạt Sơn Giang Đỉnh: nhổ núi, nhắc vạc, chỉ sức mạnh vô địch của Hạng Vũ.

(2)  Bá Thượng: tên đất nay thuộc tỉnh Thiểm Tây. Khi Bái Công tức Hán Cao Tổ ở đất Bá Thượng, có đám mẩy nổi trên trời như h́nh con rồng năm sắc; có người cho đó làm điềm làm vua (thiên tử khí).

(3)  Mỹ nhân ca: khi bị vây chặt ở đất Cai Hạ, Hạng Vũ ngồi trong trướng nghe bài ca Ngu cơ hát họa lại bài Ngu hề.

(4)  Ư nhắc đến chuyện các nhà nho bàn luận về việc Hạng Vũ sau khi thua ở Cai Hạ, không chịu về Giang Đông.

(5)  Trường Lăng: tên huyện thuộc tỉnh Thiểm Tây. Mộ Hán Cao Tổ ở đấy.

(6)  Xích mi: toán quân nông dân khởi nghĩa thời Tây Hán. V́ sợ lẫn lộn với quân lính của Vương Măng, nên họ bôi đỏ lông mày (xích mi). Sau bị Hán Quang Vũ đàn áp.

225/249

Bá Vương Mộ II

Lộ bàng phiến thạch độc tranh vanh
Bất thị Ô Giang, thị Lỗ Thành  (1)
Cập thức bại vong phi chiến tội  (2)
Không lao trí lực dữ thiên tranh
Cổ kim vô ná anh hùng lệ  (3)
Phong vũ do văn sất sá thanh  (4)
Tịch tịch nhị thời vô tảo tế
Xuân lai Ngu thảo tự tùng sinh.  (5)

Mộ Sở Bá Vương II

Tấm đá bên đường đứng tranh vanh
Chẳng thuộc Ô Giang chính Lỗ Thành
Biết bại không v́ mưu trận kém
Không phí trí lực với trời tranh
Xưa nay bao anh hùng rơi lệ
Mưa gió nghe như tiếng thét quanh
Vắng vẻ hai thời không cúng bái
Cỏ Ngu xuân về lại tươi xanh.

Chú thích:

(1)  Ô Giang, Lỗ Thành: bị đánh thua ở Cai Hạ, Hạng Vũ chạy đến bến Ô Giang, người chèo thuyên khuyên trở về nước Sở để gây lại lực lượng, nhưng Hạng Vũ cho là tại trời mà thua nên tự thắt cổ chết.

Lỗ Thành: nơi Hạng Vũ làm bá chủ. Sau khi Hạng Vũ chết, các nơi đều theo Hán Cao tổ, riêng nước Lỗ không chịu hàng, Cao tổ sai đem đầu Hạng Vũ cho xem nước ấy mới mở cửa thành xin hàng.

(2)  Câu này nhắc lời Hạng Vũ nói ông ta bị thua không phải v́ không biết đánh trận mà v́ trời làm.

(3)  Câu này nhắc khi Hạng Vũ khi ở Cai Hạ cảm khái làm thơ, ca lên mấy lần, Ngu cơ họa theo. Hạng Vũ khóc chẩy nước mắt. Tả hữu đều khóc.

(4)  Hạng Vũ ở trong quân hay la thét, nay đă chết nhưng nghe mưa gào gió thét, tưởng như tiếng ông la thét khi xưa.

(5)  Ngu thảo: tức là Ngu mỹ nhân thảo. Ngu cơ là vợ Hạng Vũ, khi Vũ bị bao vây ở Cai Hạ, nàng tự sát; thứ cỏ mọc trên mộ nàng, người ta gọi là cỏ Ngu mỹ nhân. Tăng tử cố trong bài vịnh nàng có câu “Tiên huyết hóa vi nguyên thượng thảo” (Máu đào hóa làm cỏ trên băi).

226/249

Liễu Hạ Huệ Mộ

Ngô điếm kiều thông Tứ thủy ba  (1)
Sĩ sư danh tích vị tiêu ma
Sự nhân trực đạo ninh tam truất
Tác thánh toàn công tại nhất ḥa
Tương đối Ni Sơn trường hữu Lỗ   (2)
Khả liên Đạo Chích dĩ vô gia  (3)
Bi tàn một tự mai hoang thảo
Thiên cổ văn phong nhất há xa.

Mộ Liễu Hạ Huệ

Dưới cầu Ngô Điếm, ḍng Tứ trôi
Danh sĩ sư cũ vẫn chưa phôi
Chịu truất ba lần không thay đạo
Hoàn thánh nhờ công chữ ḥa thôi
Trước mặt Ni Sơn c̣n có Lỗ
Thương cho Đạo Chích vẫn không nhà !
Bia tàn chữ tán vùi trong cỏ
Ngàn năm nghe tiếng ta xuống xe.

Chú thích:

Liễu Hạ Huệ: người nước Lỗ, thời Xuân Thu chức sĩ sư, ba lần bị truất vẫn không bỏ đi. Người ta hỏi lư do, ông trả lời: “Lấy đạo ngay mà thờ người, th́ hà tất phải rời quê cha đất tổ”. Mạnh Tử bảo ông là “Thánh chi ḥa”. Ở đầu cầu Ngô Điếm trên sông Tứ có ngôi mộ của Liễu Hạ Huệ.

(1)  Tứ thủy: tên một con sông bắt nguồn từ Sơn Đông chảy qua tỉnh Giang Tô rồi chảy vào sông Vận Hà.

(2)  Lỗ: nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Ni Sơn là ngọn núi thuộc đia phân nước Lỗ.

(3)  Đạo Chích: em Liễu Hạ Huệ tên là Chích, y là một tên cướp có tiếng nên gọi là Đạo Chích.

227/249

Từ Châu Đạo Trung

Tang Càn nam hạ bạch vân đa   (1)
Thủy viễn sơn trường miết nhăn qua (2)
Vạn lư lợi danh khu bạch phát
Nhất thiên phong tuyết độ Hoàng Hà
Mỗi liên cố thái duy cuồng tại
Dục mịch tân hoan nại lăo hà
Nhương tận khổ hàn tam duyệt nguyệt
Lĩnh đầu lạc đắc khán mai hoa.

Trên Đường Từ Châu

Sông Tang xuôi nam mây trắng đầy
Chỉ nh́n toàn sông rộng núi dài
Lợi danh tóc bạc giong muôn dặm
Một ngày gió tuyết bến sông Hoàng
Tiếc rằng thói cuồng vẫn chửa dứt
Muốn niềm vui mới ngại đầu già
Ngóng trải rét lạnh thêm ba tháng
Đầu núi hưởng thú ngắm hoa mai.

Chú thích:

Từ Châu: ở phía bắc tỉnh Giang Tô.

(1) Tang Càn: hay Tang Kiền là con sông bắt nguồn từ tỉnh Sơn Tây chảy vào tỉnh Hà Bắc.

(2) Có bản chép: bất kiến gia, không thấy nhà.

228/249

Nhị Sơ Cố Lư

Phù thế’ thao thao tử tuẫn danh
Hối đầu thùy khẳng niệm ngô sinh
Quan ṭng nhất trí thân năng bảo
Sự cách thiên niên thạch vị khuynh
Xuân xă không lưu thân cố hội
Bạc điền vô phục tử tôn canh
Khả liên thùy lăo Tiêu hiền phó   (1)
Đồ đắc nhân gian thán bất b́nh.

Làng Cũ Hai Ông Họ Sơ

Người đời nhan nhản chết v́ danh
Ngoảnh lại coi ai tiếc thân ḿnh
Đồng ḷng từ quan thân toàn vẹn
Thạch đá ngàn năm chẳng hề nghiêng
Hội xuân bè bạn c̣n gặp mặt
Ruộng vườn chẳng để con cháu cầy
Chạnh ḷng thương lăo Tiêu thái phó
Đành để người than nỗi bất b́nh.

Chú thích:

Nhị Sơ: đời nhà Hán, có Sơ Quảng và Sơ Thụ, hai chú cháu, cùng làm quan đồng triều và cùng cáo quan về hưu một lúc, người đời khen là cao thượng, không ham danh vị. Khi ra về, nhà vua tặng cho nhiều của cải, ruộ ng vườn, hai ông chia cho bạn cũ hết, không để lại cho con cháu.

(1)  Tiêu hiền phó: chỉ ông Tiêu Vọng Chi làm chức Thái phó đời Hán, bị bọn hoạn quan đánh lừa tống ngục, phải tự tử.

229/249

Từ Châu Đê Thượng Vọng

Nhất hà nam bắc cổ tranh hành
Hà thượng Từ châu cựu hữu danh
Hi mă cựu đài thu thảo biến  (1)
Đoạn xà đại trạch mộ vân b́nh  (2)
Nhất thánh nhân vật oa trung nghĩ
Tứ lộ chu xa thủy thượng b́nh
Trướng vọng hồng trần diểu vô tế
Bất tri nhật nhật thử trung hành.

Trên Đê Từ Châu Nh́n Ra

Một sông nam bắc giành giật nhau
Tiếng tăm lưu lại đất Từ Châu
Đài đua ngựa cũ cỏ thu chiếm
Đầm chém rắn xưa mây chiều giăng
Trong thành người như kiến nhộn nhịp
Bốn ngả thuyền xe như bèo dong
Buồn ngó bụi trần vương mờ mịt
Ngờ đâu ngày măi quẩn bên trong.

Chú thích:

Từ Châu: một trong chín châu thời vua Vũ nhà Hạ, nay thuộc phần đất tỉnh Giang Tô.

(1)   Hí mă cựu đài: đài ở trường đua ngựa, tỉnh Giang Tô. Thời nhà Tần, ông Lưu Dụ thường hội họp quan khách ở đây để ngâm vịnh.

(2)   Đoạn xà đại trạch: Hán Cao Tổ thuở hàn vi đi qua đầm lớn ở đất Từ, thấy con rắn nằm ngang đường liền rút gương chém chết. Sau người ta gọi đầm ấy là “Đầm Chém Rắn”.

230/249

An Huy Đạo Trung

Đề nha á á loạn lăng thần
Từ bắc Từ nam hiểu sắc phân
Nhất đái tuyết điền thanh giả mạch
Tứ sơn tùng thụ bạch vi vân
Du du hương quốc bát thiên lư
Lục lục công danh nhất phiến trần
Cộng chỉ mai hoa báo tiêu tức
Xuân hà tằng đáo dị hương nhân !

Dọc Đường Đi An Huy

Quạ kêu quạc quạc lúc rạng đông
Từ Châu nam bắc nắng tỏ tường
Cánh đồng tuyết phủ xanh là lúa
Tứ bề tùng núi trắng là mây
Xa quá quê hương tám ngh́n dặm
Lận đận công danh giữa cuộc trần
Cùng chỉ hoa mai ḱa xuân đến
Nhưng xuân nào đón khách đơn thân !

Chú thích:

Nguyễn Du và đoàn sứ bộ đi qua tỉnh An Huy vào đầu tháng 11 năm Quí Dậu (1813).

231/249

Á Phủ Mộ

Nhăn khan Bá Thượng ngũ vân phù (1)
Cấp cấp phương đồ nhất kích mưu
Đăn đắc thử tâm vô phụ Sở  (2)
Bất tri thiên mệnh dĩ quy Lưu
Bá đồ dẫn diệt thiên niên hậu
Cổ mộ hoang lương tam xích thu
Đa thiểu nhất tâm trung sở sự
Mỗi vi thiên hạ tiếu kỳ ngu.

Mộ Á Phủ

Bá Thượng mây năm màu đà thấy
C̣n chăm chăm lấy mạng Lưu Bang
Có tấm ḷng trung không phụ Sở
Chẳng hay mệnh trời đă về Lưu
Nghiệp bá ngàn năm tan tành cả
Bia cao mộ vắng cỏ thu buồn
Nhiều người một ḷng trung với chủ
Để cho thiên hạ ngạo kẻ ngu.

Chú thích:

Á Phủ: tức Phạm Tăng. Hạng Vũ tôn kính Phạm Tăng như cha, thường gọi là Á phủ (dưới cha một bậc, như chú). Trong bữa tiệc Hồng môn, Tăng khuyên Hạng Vũ giết Lưu Bang. Hạng Vũ không nghe, sau nghe bọn phản gián, nghi Tăng, tước hết quyền lực. Tăng giận bỏ về, đến Bành Thành ở huyện Đông Sơn, tỉnh Giang Tô) th́ bị nhiễm độc rồi chết.

(1)  Bá Thượng: ở phía đông huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây. Lưu Bang (Cao Hán tổ) đóng quân ở đấy. Sử cũ chép: Phạm Tăng bảo Hạng Vũ có mây năm sắc nổi lên ở đất Bá Thượng, điềm báo trước Lưu Bang sẽ được thiên hạ.

(2) Sở: chỉ Hạng Vũ, vua nước Sở lúc bấy giờ.

232/249

Chu Lang Mộ

Thiêu tận Tào gia bách vạn binh (1)
Trượng phu sai túc úy b́nh sinh
Đồng niên giao nghị liên Tôn Sách  (2)
Nhất thế tri âm đắc Khổng Minh  (3)
Ngơa lịch Ngô cung hoang đế nghiệp
Kinh trăn cổ mộ thượng hùng danh
Nhị Kiều hương cốt tàng hà sở  (4)
Nhăn kiến Đồng đài bán dĩ khuynh. (5)

Mộ Chu Lang

Hủy mất nhà Tào trăm vạn binh
Trượng phu đủ thỏa chí b́nh sinh
Cùng tuổi thân t́nh bạn Tôn Sách
Một thời ân nhớ gặp Khổng Minh
Cung Ngô tan hoang, nghiệp vua tàn
Mộ xưa phủ cỏ vẫn hùng danh
Hương cốt hai Kiều chôn đâu nhỉ ?
Mắt thấy đài Đồng nửa đổ tan.

Chú thích:

Chu Lang: tức Chu Du, mưu sĩ Đông Ngô.

(1)   Tào Tháo đem trăm vạn quân xuống đánh Đông Ngô, Chu Du liên kết với Khổng Minh đánh hỏa công, Tào Tháo thua.

(2)  Đồng niên: Chu Du với Tôn Sách là bạn cùng một tuổi, lại có t́nh anh em rể.

(3)  Tri âm: Khổng Minh chọc tức Chu Du ba lần, Chu Du uất mà chết. Khổng Minh khóc Chu Du nhận là bạn tri âm.

(4)  Nhị Kiều: Đại Kiều và Tiểu Kiều, hai chị em, vợ Chu Du và Tôn Sách, nổi tiếng có sắc đẹp.

(5)  Tào Tháo dựng đài Đồng Tước ở bến sông Chương, định khi thu phục Đông Ngô sẽ bắt hai nàng Kiều cho ở trong đài (Xem bài số 87: Đồng Tước Đài).

233/249

Tổ Sơn Đạo Trung

Phong thụ lâm trung diệp loạn phi
Kinh sa tác vũ thướng chinh y
Tiêu tiêu khó thảo lộ nhất tuyến
Tịch tịch tà dương sơn tứ vi
Khứ nhật Lưởng Hà tằng tập chiến   (1)
Vu đồ thiên lư chính tư qui
Ba ba bạch phát hồng trần lộ
Nhật mộ đăng cao bi mạc bi.

Trên Đường Đi Tổ Sơn

Lá rừng phong bay vô định hướng
Cát như mưa phủ áo khách đường
Cỏ khô tiêu điều dọc suốt lộ
Bóng chiều tịch mịch núi bốn phương
Hôm trước Bắc Nam Hà gặp loạn
Đường quanh muôn dặm nhớ quê hương
Tóc nhuốm bụi trần đà bạc trắng
Chiều hôm lên núi buồn ơi buồn.

Chú thích:

(1)  Xem bài số 80. Trở Binh Hành. V́ hai tỉnh Hà Nam, Hà Bắc đói, dân nổi dậy nên đoán sứ phải đi đường ṿng sang phía đông mà trở về.

234/249

Quảng Tế Kư Thắng

Giang Nam, Hồ Bắc địa tương lân
Nhật nhật phồn hoa bất kư xuân
Ngọc địch lâu đầu thiên thượng khúc
Thùy dương môn ngoại họa trung nhân
Tất bồn dục điếm khuynh phi tạo
Ngọc thủ Hồ cơ khoái tế lân
Dục điển túc sương mưu nhất túy (1)
Nại hà đầu dĩ bạch như ngân.

Ghi Cảnh Đẹp Đất Quảng Tế

Giang Nam Hà Bắc đất giáp ranh
Ngày ngày nhộn nhịp áng xuân xanh
Sáo ngọc lầu cao nhạc trời ắc
Cổng ngoài liễu rủ đẹp như tranh
Ngào ngạt hương thơm bồn sơn tắm
Gái Hồ tay khéo soạn gỏi ngon
Áo cừu muốn bán mua say ngất
Chỉ hiềm đầu tóc đă bạc phơ.

Chú thích:

Quảng Tế : tên một huyện thuộc tỉnh Hồ Bắc.

(1)  Túc sương: tên một loài chim lông đẹp, da có thể chế làm áo cừu. Chuyện Tây Kinh tạp chí chép: Tư Mă Tương Như cùng vợ là Trác Văn Quân về thành đô (Tứ Xuyên), nghèo túng, phải cầm áo cừu túc sương lấy tiền mua rượu, vợ chồng cùng uống cho đỡ buồn.

235/249

Đồ Trung Ngẫu Hứng

Sơn hạ kiều tùng, tùng hạ phần
Luy luy đô thị cổ thời nhân
Tự do tự tại bất tri tử
Hoa lạc hoa khai vô hạn xuân
Phục lạp tử tôn không loại tửu  (1)
Thế gian phú quí đẳng phù vân
Bách niên đáo để giai như thị
Hồ thủ mang mang nhất phiến trần.

Dọc Đường Chợt Hứng

Chân núi đầy thông dưới có mộ
San sát từng lớp người thiên cổ
Tha hồ thoải mái chết đâu biết
Hoa rụng hoa nở xuân vẫn tô
Giỗ chạp rượu ngon con cháu rưới
Giàu sang đời người như mây trôi
Trăm năm rốt cuộc đều thế cả
Ngoảnh lại mịt mùng một mảnh đời.

Chú thích:

(1)  Phục lạp: phục là tiết phục mùa hạ, lạp là tiết chạp mùa đông, hai ngày lễ của nhà nông thời cổ, người ta làm lễ tế ở mồ mả gia tiên, khi tế thường tưới rượu xuống đất, để cầu thần dưới đất, cũng như dâng hương để khói bốc cầu thần trên trời.

236/249

Hoàng Châu Trúc Lâu

Hợp vi cự trúc biến giao cù
Tằng hữu tiền nhân kiến thử lâu  (1)
Cựu chỉ hà thời thành bạch địa
Di văn ṭng cổ kư Hoàng Châu  (2)
Hâu nhân đồ hữu thiên niên cảm
Đương nhật tằng vô cách tuế mưu (3)
Duy hữu Trường giang xảo thu thập
Nhất thành nhất húy tẫn đông lưu.

Lầu Trúc Ở Hoàng Châu

Trúc to trúc lớn bụi mọc đầy
Người xưa dựng một mái lầu cây
Nền cũ thời nào nay đất trắng
Bài viết Hoàng Châu vẫn c̣n đây
Người nay cảm chuyện ngh́n năm trước
Đương thời nghĩ chuyện khó tính thông
Giỏi ra chỉ một sông Dương Tử
Thành bại theo ḍng cuốn bể đông.

Chú thích:

Hoàng Châu: tên đất, nay là huyện Hoàng Cương, tỉnh Hồ Bắc.

(1) Tiền nhân: người thời trước, chỉ ông Vương Vũ Xứng, nhà thơ đời Tống, khi bị trích ở Hoàng Châu, có làm cái lầu bằng trúc tại đây và làm bài thơ nhan đề là Hoàng Châu trúc lâu kư.

(2)  Di văn: chỉ bài văn của Vương Vũ Xứng.

(3)  Cách mưu tuế: tính việc năm sau. Trong bài kư trên, tác giả có nói “Trong bốn năm phải bôn tẩu không nghỉ, chưa biết sang năm lại đi nơi nào, há sợ lầu trúc này dễ hỏng nát sao?”.

237/249

Vinh Khải Kỳ Thập Tuệ Xứ

Tam lạc nhân giai hữu  (1)
Như hà tử độc tri  ?
Sinh bần do bất tuất
Lăo tử phục hà bi ?
Khoáng dă Đông sơn hạ  (2)
Hành ca thập tuệ th́
Hiền danh lưu thử địa
Thiên cổ khởi nhân ti (tư).

Nơi Vinh Khải Kỳ Mót Lúa

(Thơ bẩy chữ)

Ba khoái cái vui của mọi người
Sao chỉ ḿnh ông biết trên đời
Nghèo sống cực khổ chẳng biết sợ
Già chết buồn chi chẳng một lời
Đông Sơn bát ngát giữa cánh đồng
Vừa đi vừa hát mót lúa rơi
Danh tiếng bậc hiền như c̣n vọng
Ngàn xưa chuyện cũ vẫn truyền nhời.

(Thơ năm chữ)

Ba vui người đều có
Biết cả một ḿnh ông
Sống nghèo có hề chi
Già chết lo làm ǵ
Giữa cánh đồng núi Đông
Vừa mót lúa vừa hát
Tiếng hiền c̣n lưu măi
Ngàn năm vẫn c̣n truyền.

Chú thích:

(1)  Vinh Khải Kỳ: một ẩn sĩ đời Xuân Thu. Sách Liệt tử chép: Khổng tử đi chơi thấy Vinh Khải Kỳ ở ngoài đồng, vừa đi vừa hát, bèn hỏi: “Tiên sinh có điều ǵ vui mà hát thế?”. Vinh Khải Kỳ đáp: “Tôi có rất nhiều điều vui; vui được làm người quí hơn muôn vật; vui được làm người đàn ông, quí hơn đàn bà; vui được sống lâu 90 tuổi, không chết non. Đó là ba điều vui vậy”.

Thập tuệ : mót lúa, cũng là tên một bài ca.

(2)   Đông Sơn: tên núi thuộc tỉnh Chiết Giang trên đường về của sứ bộ.

238/249

Mạnh Tử Từ Cổ Liễu

Ngô văn thiên tŕ chi phần hữu long yêu kiểu
Kim chi hoạ đồ vô lược tiếu
Phong vũ nhất dạ phi hạ lai
Háo vi á thánh cung môn liễu
Thử liễu hồn toàn bách thập vi
Dưỡng thành đại vật phi nhất th́
Vũ lộ thiên ư độc tư nhuận
Quỉ thần ám trung tương phù tŕ
Chi kha lạc lạc lăo ích tráng
Tuế nguyệt du du thâm bất tri
Tả bàn hữu chuyển đương đại đạo
Quá khách bất cảm phàn kỳ chi
Thông thông uất uất băo nguyên khí
Thiên hạ tư văn kỳ tại ti (tư)
Hương nhân chi dĩ nhị thạch trụ
Thạch trụ kư thâm căn dũ cố
Bất đồng phàm hủy tiểu xuân thu
Bán mẫu phong yên tự kim cổ
Hạo nhiên chi khí phi tầm thường
Đại tài ưng dữ thiên tề thọ.

Cây Liễu Cổ Trước Đền Thờ Mạnh Tử

Truyền rằng ao trời có rồng uốn khúc
Sao bức họa thời nay chẳng giống
Một đêm mưa gió rồng giáng trần
Ḥa thành cây liễu đền Thánh nhân
Thân liễu lớn trọn trăm ṿng tay
Lớn to đâu phải há một ngày
Ư trời mưa thuận làm tươi tốt
Quỷ thần trong cũng phụ trợ ngầm
Sum suê cành lá già càng cứng
Lâu năm không biết tự bao giờ
Uốn quanh tả hữu kề đường cái
Khách qua đường chẳng dám níu cành
Um tùm rậm rạp ủ nguyên khí
Vốn liếng văn đời tại nơi đây
Hai trụ đá do dân làng dựng
Đá càng sâu gốc liễu càng bền
Hơn hẳn cây vài năm sống sót
Tản ra nửa mẫu từ thuở xưa
Hạo nhiên cái khí chẳng tầm thường
Cây lớn sống măi ngang tuổi trời.

Chú thích:

Mạnh tử: người nước Trâu, phía nam tỉnh Sơn Đông ngày nay. Ông đi khắp các nước tề, Lương, Tống, Đằng, lúc già lại về nước, cùng với học tṛ làm sách Mạnh Tử. Đền thờ Mạnh Tử nói đây là ở Sơn Đông.

239/249

Từ Châu Dạ

Hành lộ tị can qua
Nghiêm đông dạ độ hà
Nguyệt lai nam quốc đại
Sơn nhập bắc Từ đa
Thành ngoại liệt binh giáp
Thành trung văn huyền ca
Khô dương tam bách thụ
Thụ thụ hữu đề nha. (1)

Đêm Từ  Châu

Tránh giặc trên đường lộ
Đêm đông lạnh qua sông
Trăng Nam quốc mọc to
Bắc Từ núi thêm nhiều
Ngoài thành đầy gươm giáo
Trong thành rộn đàn ca
Ba trăm cây dương chột
Vọng tiếng quạ kêu vang.

Chú thích:

Từ Châu: ở phía tây bắc tỉnh Giang Tô.

240/249

Tiềm Sơn Đạo Trung

Túc hữu ái sơn tích
Biệt hậu tứ hà như
Lai đáo Tiềm Sơn lộ
Uyển như Hồng Lĩnh cư
Vân hà viên khiếu ngoại
Tùng bách hạc sào dư
Định hữu sơn trung khách
B́nh sinh bất thức dư.

Đường Qua Núi Tiềm

Ta vốn tính yêu núi
Xa quê nhớ không nguôi
Đường Tiềm Sơn nay đến
Tưởng như ở núi Hồng
Ngoài mây tiếng vượn hú
Bách tùng tổ hạc cao
Trong núi có người ẩn
B́nh sinh chẳng biết ta.

Chú thích:

Tiềm Sơn: tên một dẫy núi thuộc huyện Tiềm Sơn, tỉnh An Huy.

241/249

Đào Hoa Đàm Lư Thanh Liên Cựu Tích

Đào hoa đàm thủy thiên xích thanh (1)
Đàm thượng tùng bách đông do thanh
Đạo thị Đường triều Lư cung phụng   (2)
Túng ẩm thử đảm nhân đắc danh
Thập niên tửu tứ nhân gian thế (3)
Thiên tử hô lai do lạn túy  (4)
”Tự ngôn thần thị tửu trung tiên”
Bạc thị vinh danh đồng tệ lư
Thiên niên thắng tích dĩ nhân truyền
Bất tại du du nhất đàm thủy
Đàm thủy chí kim thanh thả liên
Nhất ngư nhất điểu giai thành tiên
Trù trướng tư nhân bất phục kiến
Viễn lai sử ngă tâm mang nhiên
Thế lộ trân ai tín hỗn trọc
Bất như chung nhật thống ẩm toàn ngô thiên.

Đầm Đào Hoa, Dấu Tích Cũ Của Lư Thanh Liên

Đầm Đào Hoa ngh́n thước nước trong
Bên bờ tùng bách thắm tươi xanh
Rằng xưa một Lư Cung thời Đường
Say mèm nơi đó nên thành danh
Mười năm lăn lóc rượu một quán
Vua gọi vào cung vẫn khướt say
Danh xưng: “tiên rượu chính là ta”
Danh vọng coi thường như giẻ rách
Bởi người cảnh ngh́n năm nổi tiếng
Đâu phải do đầm nước mênh mông
Nước đầm vẫn trong vẫn gợn sóng
Một cá một chim cũng thành tiên
Buồn thân người xưa chẳng được gặp
Ḷng người xa xứ luống bùi ngùi
Đường trần ô trọc đầy gió bụi
Chi bằng ngày tháng giữ cốt thiên cứ uống tràn.

Chú thích:

Lư Thanh Liên: tức Lư Bạch đời Đường, tự xưng là Thanh Liên cư sĩ.

(1)  Đào Hoa đàm: đầm Đào Hoa, ở tỉnh An Huy.

(2)  Cung phụng: chức quan của Lư Bạch trong Viện Hàn lâm.

(3)  Thập niên tửu tứ nhân gian thế: câu thơ của Đỗ Phủ nói về Tư Mă Tương Như, nghĩa là quăng đời mười năm sống trong quán rượu.

(4)  Thiên tử hô lai: Đường Huyền tôn cho Cao Lực Sĩ đến gọi Lư Bạch vào cung làm thơ. Lư Bạch đang say, phải vực lên thuyền. Bài Ẩm trung bát tiên ca của Đỗ Phủ có bốn câu:

    Lư Bạch nhất đẩu thi bách thiên
    Trường An thị thượng tửu gia miên
    Thiên tử hô lai bất thướng thuyền
    Tự xưng thần thị tửu trung tiên

Dịch:

    Lư Bạch rượu nhiều th́ thơ hay
    Quán rượu Trường An ngủ thiệt say
    Vua gọi lên thuyền cũng chẳng biết
    Xưng danh ḿnh là tiên rượu đây

Đàm Giang

242/249

Đào Hoa Dịch Đạo Trung I

Nhị Thủ

Tiềm sơn bát bách lư
Tây tiếp Sở sơn vân
Cổ thạch sấu như quỉ
Tân tùng trường tỉ nhân
Vạn huề nghi thúc mạch
Thập nhật cách phong trần
Bạch liên Hà Bắc sơn
Sơn trung như bất văn.

Trên Đường Trạm Đào Hoa I

Xa Tiềm Sơn tám trăm dặm trường
Phái tây kề núi Sở mây vương
Đá xưa gầy g̣ tựa h́nh quỉ
Cao bằng người cây non tùng dương
Vạn mảnh ruộng lúa đậu tươi sắc
Đă mười ngày xa gió bụi trần
Nay qua Bạch Liên núi Hà Bắc
Trong núi tịch mịch bặt âm thanh.

243/249

Đào Hoa Dịch Đạo Trung II

Kê khuyển xuất tang ma
Duyên khê tiểu kính tà
Sơn điền thường tích thủy
Dă phạn bán hàm pha
Thạch ẩn cao nhân ốc
Trần tùy quí giả xa
Cô yên tại thiên mạt
Kim dạ túc thùy gia ?

Trên Đường Trạm Đào Hoa II

Chó gà chạy ra từ vườn dâu
Một lối nho nhỏ ven bờ khe
Ruộng vườn núi tích tụ nước đầy
Bữa cơm ngoài đồng lẫn cả sạn
Đá dấu nhà người sống ẩn dật
Bụi bám đầy xe ngựa người sang
Một làn khói lẻ nơi chân trời
Đêm nay chẳng biết trọ nhà ai ?

244/249

Lương Chiêu Minh Thái Tử

Phân Kinh Thạch Đài
Lương triều Chiêu Minh thái tử phân kinh xứ,
Thạch đài do kư “Phân Kinh” tự
Đài cơ vu một vũ hoa trung
Bách thảo kinh hàn tận khô tử
Bất kiến di kinh tại hà sở
Văng sự không truyền Lương thái tử (1)
Thái tử niên thiếu nịch ư văn
Cưỡng tác giải sự đồ phân phân
Phật bản thị không, bất trước vật
Hà hữu hồ kinh, an dụng phân ?
Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa
Thục vi Kim Cương, vi Pháp Hoa ? (2)
Sắc không cảnh giới mang bất ngộ
Si tâm qui Phật, Phật sinh ma
Nhất môn phụ tử đa giao tế
Nhất niệm chi trung, ma tự chí
Sơn lăng bất dũng liên hoa đài
Bạch mă triêu độ Trường giang thủy (3)
Sở lâm họa mộc, tŕ ương ngư (4)
Kinh quyển thiêu hôi, đài diệc dĩ
Không lưu vô ích vạn thiên ngôn
Hậu thế ngu tăng đồ quát nhĩ
Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn (5)
Thuyết pháp độ nhân như Hằng Hà sa số (6)
Nhân liễu thử tâm, nhân tự độ
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
Minh kính diệc phi đài
Bồ đề bản vô thụ (7)
Ngă độc Kim cương thiên biến linh
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo Phân kinh thạch đài hạ
Tài tri vô tự thị chân kinh. (8)

Đài Đá Phân Kinh của Thái Tử Lương Chiêu Minh

Nơi chia kinh của Thái tử Chiêu Minh
Đài c̣n ghi rơ chữ “Phân Kinh”
Mưa phủ trên nền đài hoang vắng
Cỏ cây chết rũ v́ rét mướt
Chẳng thấy kinh đâu tại chốn này
Chỉ nghe đồn Thái tử triều Lương
Thái tử tuổi trẻ văn ưa thích
Bày ra rắc rối chuyện chia kinh
Phật bản chữ không, chẳng nhờ vật
Có ở kinh đâu mà lại chia ?
Văn thiêng đâu phải cậy ngôn ngữ
Đâu là kinh Kim Cương, Pháp Hoa ?
Cơi sắc không mù mịt không tường
U mê theo Phật, Phật ra ma
Bố con một cửa đều ngờ nghệch
Tâm tưởng nghĩ ma, ma xuất hiện
Sơn lăng chẳng thấy đài sen mọc
Ngựa trắng một sớm qua sông Trường
Rừng Sở bị họa, cả ao cá
Kinh sách thiêu tro, đài tan hoang
Ích ǵ lưu lại cả vạn lời
Để tăng hậu thế đọc điếc tai
Nghe rằng Thế Tôn ở Linh Sơn
Thuyết pháp cứu người như cát sông Hằng
Hiểu được tâm người tức tự độ
Linh sơn hiện hữu trong ḷng người
Minh kính nào phải là đài
Bồ đề nào phải là cây
Kim Cương kinh đọc cả ngàn lần
Nghĩa sâu xa ta không thấu triệt
Nay trước đài Phân Kinh ta viếng
Mới hay không chữ mới là chân kinh.

Chú thích:

(1)  Lương Chiêu Minh Thái tử: Lương (502-556) là một trong bốn triều vua thời Nam Triều (Tống, Lê, Lương, Trần). Thái tử Chiêu Minh tên là Chiêu Thống, con Lương Vũ đế (Chiêu Diên) (502-549). Hai cha con đều sùng bái đạo Phật. Chiêu Minh c̣n là tác giả bộ Văn tuyển.

(2)   Kim Cương, Pháp Hoa: tên hai bộ kinh Phật.

(3) (4) Bạch mă, Sở lâm: hai câu này nói về tích Hầu Cảnh trước là tướng Đông Ngụy, sau hàng Lương rồi lại phản Lương, cưỡi ngựa trắng qua sông Trường Giang đánh Lương Vũ đế. Khi Hầu Cảnh hàng Lương, Đông Ngụy đưa tờ hịch cho Lương, có câu: “Sợ nước Sở mất vượn, họa lây đến cây rừng, cửa thành cháy, vạ lây đến cá dưới ao”.

(5)   Thế Tôn: chỉ Phật tổ; Linh Sơn: một ngọn núi ở Trung Ấn Độ, nơi Thế Tôn giảng Pháp Hoa kinh.

(6)   Hằng Hà: con sông ở Ấn Độ, hai bờ toàn cát. Hằng Hà sa số: nhiều như cát sông Hằng, câu này sau trở thành một thành ngữ.

(7)  Bồ đề bản vô thụ: lấy điển ở một bài kệ: “Bồ đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài, Bản lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai ”. (Bồ đề không phải ai, Minh kính không phải đài, Vốn không phải một vật, Bụi bặm vướng vào đâu?).

(8)  Vô tự kinh: kinh không chép bằng chữ. Ư nói đạo ở tâm chứ không phải ở kinh kệ.

245/249

Tây Hà Dịch

Thanh thạch kiều tây ngạn
Y nhiên tiểu lư hư
Đạo bàng nhân ngữ tạp
Ốc hậu trúc âm sơ
Ḥa bản cung thần thiếu
Xuân liên đăi quế trừ
Tương phùng vô biệt thoại
Nhất tiếu ư hà như ?

Trạm Tây Hà

Cầu đá xanh phía tây
Xóm nhỏ vẫn như xưa
Bên đường người nói rộn
Sau nhà bóng trúc thưa
Nhúm dạ đun bếp sớm
Câu đối chờ cuối năm
Gặp nhau không nói năng
Nụ cười ư ǵ chăng ?

Chú thích:

Tây Hà: ở phía đông Hoàng Sa, nay là huyện Phần Dương, tỉnh Sơn Tây.

246/249

Sở Kiến Hành

Hữu phụ huề tam nhi
Tương tương tọa đạo bàng
Tiểu giả tại hoài trung
Đại giả tŕ trúc khuông
Khuông trung hà sở thịnh ?
Lê hoắc tạp t́ khang
Nhật án bất đắc thực
Y quần hà khuông nhương !
Kiến nhân bất ngưỡng thị
Lệ lưu khâm lang lang
Quần nhi thả hỉ tiếu
Bất tŕ mẫu tâm thương
Mẫu tâm thương như hà ?
Tuế cơ lưu dị hương
Dị hương sảo phong thực
Mễ giá bất thậm ngang
Bất tích khí hương thổ
Cẩu đồ cứu sinh phương
Nhất nhân kiệt dung lực
Bất sung tứ khẩu lương
Duyên nhai nhật khất thực
Thử kế an khả trường
Nhăn hạ uỷ câu hác
Huyết nhục tự sài lang
Mẫu tử bất túc tuất
Phủ nhi tăng đoạn trường
Kỳ thống tại tâm đầu
Thiên nhật giai vị hoàng
Âm phong phiêu nhiên chí
Hành nhân diệc thê hoàng
Tạc tiêu Tây Hà dịch
Cung cụ hà trương hoàng
Lộc cân tạp ngư xí
Măn trác trần trư dương
Trưởng quan bất hạ trợ
Tiểu môn chỉ lược thường
Bát khí vô cố tích
Lân cẩu yếm cao lương
Bất tri quan đạo thượng
Hữu thử cùng nhi nương
Thùy nhân tả thử đồ
Tŕ dĩ phụng quân vương.

Những Điều Nh́n Thấy

Người mẹ dắt ba con
Ngồi gần bên vệ đường
Tay ẵm đứa bé nhỏ
Đứa lớn xách giỏ tre
Trong giỏ biết có ǵ
Nắm rau cùng tấm cám
Trưa rồi chẳng có ăn
Quần áo thật rách rưới
Không dám ngửng nh́n ai
Nước mắt nhỏ ướt áo
Trẻ con vẫn vui cười
Đâu biết ḷng mẹ khổ
Tâm đau đớn ra sao ?
Đói kém phải lưu lạc
Nơi đây mùa khá hơn
Giá gạo cũng không cao
Đành phải bỏ quê làng
Miễn tạm sống qua thời
Một thân làm hết sức
Không nuôi đủ bốn miệng
Ngày ăn xin dọc phố
Nào biết được bao lâu ?
Mắt thấy kẻ chết lăn
Làm thịt cho sài lang
Mẹ chết không tiếc ǵ
Tội thương đàn con thơ
Nỗi đau đớn khốn cùng
Trời ngày vẫn nắng vàng
Gió lạnh đâu chợt về
Người qua đường xót xa
Hồi đêm trại Tây Hà
Cỗ mâm thật cao sang
Gân hươu cùng vây cá
Đầy ngút thịt lợn dê
Quan lớn không nhúng đũa
Tùy tùng chỉ nếm sơ
Đồ dư thừa đổ bỏ
No ḷng chó xóm quanh
Nào hay bên đường quan
Mẹ con cùng đói cả
Ai vẽ được cảnh này
Mang tŕnh lên nhà vua ?

247/249

Hoàng Mai Sơn Thượng Thôn

Sơn hạ hữu tường tùng
Sơn thượng hữu dao thôn
Sơn hạ trường tùng sao
Chính dương sơn thượng môn
Môn nội sở cư nhân
Cùng niên hà sở vi ?
Nữ sự duy tích ma
Kỳ nam nghiệp vân ti (1)
Vân ti cẩu đắc nhàn
Hà sơn phạt tùng chi
Liêu dĩ túc quan thuế
Bất sự thư dữ thi
Thôi tô nhất bất đáo
Kê khuyển giai hi hi
Mật thạch ngại xa mă
Tạp hoa đương tuế thi
Sơn ngoại hưng dữ phế
Sơn trung giai bất tri
Toán lai nhất niên trung
Sở ưu vô nhất th́
Sở dĩ sơn trung nhân
Nhân dân giai kỳ di (2)
Tùng hoa bách tử khẳng hứa thực
Bạch đầu khứ thử tương an qui.

Xóm Nhỏ Trên Núi Hoàng Mai

Chân núi có rặng thông
Sườn núi có xóm nhỏ
Dăy thông dài chân núi
Ngọn cao ngang tầm cổng
Người ở trong cửa ấy
Cả năm làm chuyện chi ?
Nữ ngồi xe sợi gai
Nam bừa cỏ vun đất
Làm vườn xong c̣n giờ
Xuống núi phạt nhánh thông
Kiếm đủ nộp thuế quan
Không đọc thơ đọc sách
Khi thuế chẳng thôi thúc
Gà chó đều vui mừng
Đá chùn chân xe ngựa
Hoa báo hiệu bốn mùa
Ngoài núi chuyện hung dữ
Trong núi chẳng ai hay
Nghĩ lại suốt cả năm
Không lúc nào lo âu
Nhờ thế người trên núi
Ai ai cũng sống dai
Hoa tùng hạt bách giá ăn được
Bạc đầu chi bằng sống nơi đâỵ.

Chú thích:

Hoàng Mai: tên một dẫy núi ở tây bắc huyện Hoàng Mai, tỉnh Hồ Bắc.

(1) Vân ti: vân: bừa cỏ, ti: vun đất vào gốc lúa.

(2)  Kỳ di: già trăm tuổi.

248/249

Hoàng Mai Đạo Trung

Ngô sơn hành dĩ biến (1)
Sở sơn lai cánh đa (2)
Đáo đắc thanh sơn tận
Kỳ như bạch phát hà !
Hành, Nhạc tuyết sơ tễ (3)
Động Đ́nh xuân thủy ba (4)
Kế tŕnh tại tam nguyệt (5)
Do cập tường vi hoa.

Dọc Đường Hoàng Mai

Núi Ngô đi khắp cùng
Đến Sở núi càng nhiều
Đi qua hết núi xanh
Đầu bạc th́ cũng đành
Hành Nhạc tuyết vừa tạnh
Động Đ́nh hiện bóng xuân
Tính đường cỡ ba trăng
Kịp tường vi ra hoa.

Chú thích:

(1)   Hoàng Mai: huyện Hoàng Mai tỉnh Hồ Bắc.

(2)   Ngô: tức tỉnh Giang Tô ngày nay.

(3)   Sở: tức Hồ Nam, Hồ Bắc.

(4)   Hành Dương: Nhạc Dương thuộc tỉnh Hồ Nam.

(5)   Động Đ́nh: thuộc tỉnh Hồ Nam. Ngày 29 tháng 3 năm Giáp Tuất (1814) Nguyễn Du về đến Nam Quan.

249/249

Chu Phát

Khứ biến đông nam lộ
Thông thông tuế dục chu (1)
Tiện ṭng Giang Hán khẩu (2)
Lai phiếm Động-Đ́nh chu
Nhân tỉ lai thời sấu
Giang đồng khứ nhật thu
Hạc Lâu thành vịnh xứ (3)
Bạch vân không du du. (4)

Thuyền Ra Đi

Hành tŕnh suốt đông nam
Thoăn thoắt năm hầu qua
Theo cửa sông Giang Hán
Xuôi thuyền Động Đ́nh qua
Người gầy guộc hơn xưa
Sông thu vẫn nguyên tươi
Lầu Hạc chốn đề thơ
Mây trắng vẫn lững lờ.

Chú thích:

(1)   Nguyễn Du về đến Vơ Xương tỉnh Hồ Bắc giữa tháng chạp năm Quí Dậu (1813), từ đấy lại theo đường thủy mà về Nam quan.

(2)   Hán khẩu: ở tỉnh Hồ Bắc, chỗ sông Hán chảy vào Trường Giang.

(3)  Hạc Lâu thành: nói về  nhà thơ Đường Thôi Hiệu có làm bài thơ nổi tiếng Hoàng Hạc lâu. Lầu Hoàng Hạc ở thành Vơ Xương thuộc Vơ Hán, tỉnh Hồ Bắc, tương truyền có vị tiên cưỡi hạc đến đó.

(4)   Câu này lấy ở thơ Thôi Hiệu:

              Bạch vân thiên tải không du du

Dịch xong 22 February 2004



Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần I

Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần II


Home | Literature | Poetry | Science | Great Places | Music and Fiction | Comments

Copyright © 2004-2005 Sóng Viêt-Ðàm Giang All Rights Reserved

This site is continually updated.