LỜI MỞ ĐẦU Nói tới nhà đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820), người ta nghĩ ngay đến Truyện Kiều, và nghĩ đến Truyện Kiều, chúng ta liên tưởng đến nội dung câu chuyện với nhân vật chính là một người đàn bà. Ngoài Truyện Kiều, Nguyễn Du còn để lại một số tác phẩm khác như Thơ Quốc Âm, Chiêu hồn thập loại chúng sinh, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Thơ thác lời trai phường nón trả lời Nguyễn Huy Quưnh. Và thơ chữ Hán gồm Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm và Bắc Hành tạp lục. Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, tác giả có viết nhiều bài nói về nhân vật nữ. Những người nữ được nhắc đến là những người sinh sống đồng thời với Nguyễn Du mà ông tình cờ gặp gỡ, hay những người tác giả quen biết lúc còn trẻ, hoặc những người đàn bà nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Bài viết này bàn về những khuôn mặt đàn bà trong thơ Hán Nguyễn Du và tâm tình của tác giả đối với họ. Bài viết chỉ là một ư kiến cá nhân, viết tìm hiểu không đặt cơ sở trên phương cách khoa học, mà mục đích duy nhất chỉ là để bày tỏ lòng quư mến thơ Hán Nguyễn Du, và nhà thơ Nguyễn Du đối với phái nữ nói chung, nhân dịp kỷ niệm 240 năm sinh nhật Nguyễn Du (Ất Dậu 1765-2005). Tất cả những câu thơ diễn dịch, phỏng dịch trong bài do chính tác giả bài viết diễn đạt. Thơ Hán Nguyễn Du và những khuôn mặt nữ giới Trong tập Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, với 249 bài thơ, có hơn 25 bài đề cập đến khuôn mặt người nữ. Những bài thơ liệt kê và con số trong ngoặc đơn để giúp độc giả dễ tìm đọc lại trong sách thơ Hán. Cách sắp xếp thứ tự bài thơ trong bài viết này căn cứ trên cách sắp xếp của Thơ Hán Nguyễn Du của Lê Thước và Trương Chính, do nhà xuất bản Văn Học Hà Nội phát hành năm 1978. Cuốn này gồm 249 bài thơ chia theo tên của từng tập thơ. Nhiều tác giả biên soạn đă nêu lên sự có cảm tình đặc biệt của Nguyễn Du với phụ nữ. Ông viết về họ với những nhận xét riêng, ư ẩn trong từng nét chữ, từng câu thơ. Những người đàn bà này không hiện diện quá rơ ràng trong thơ ông nhưng đọc thơ ông, chúng ta có thể hình dung được nhân vật đó. Trước hết, xin bàn về hình ảnh người vợ đầu của ông trong bài thơ Kư mộng và sau đó là những người mà Nguyễn Du gặp gỡ tại một thời điểm nào đó như cô gái hái sen ở Hồ Tây, cô Cầm: người đàn bà gảy đàn ở Long Thành, người đẹp cách tường cao, cô gái kéo nước giếng, người đàn bà giận chồng, cô gái cài hoa vàng, và người đẹp ở đất Thăng Long. Sau đó xin liệt kê qua tập thơ Hán những người đàn bà danh tiếng trong điển tích được Nguyễn Du nhắc đến như Tiểu Thanh, hai bà phi Nga Hoàng và Nữ Anh vợ vua Ngu Thuấn, chị em Tiểu Kiều, Đại Kiều thời Tam quốc, ba người phụ nữ trung trinh tiết liệt trong Tam Liệt Miếu, Dương Quí Phi, Ngu Cơ, Chiêu Quân. Với những người đàn bà này, Nguyễn Du không tiếc lời khen ngợi và tỏ lòng quư mến. Nhưng với người đàn bà lòng dạ ác độc thâm hiểm như vợ Tần Cối thì Nguyễn Du cũng không tiếc lời mỉa mai, châm biếm hết sức nặng nề. Những khuôn mặt phái nữ đương thời với Nguyễn Du Một số bài thơ Hán của Nguyễn Du có bóng dáng của thân nhân, nhưng bài Ký Mộng là bài duy nhất ông viết về người vợ đầu tiên vắn số, với tình cảm chứa chan, tràn đầy thương nhớ. Trong bài thơ này, chúng ta hăy nghe nhà thơ kể lại câu chuyện một người đàn bà lặn lội từ quê hương đi tìm chồng bên bờ sông. Dung nhan nàng không mấy thay đổi, nhưng quần áo xốc xếch, nàng mệt mỏi, trông bệnh hoạn có lẽ do thương nhớ. Thêm vào đó đường đi qua núi Tam Điệp hiểm trở, muông thú rình rập, sông Lam thì nguy hiểm có thuồng luồng. Vậy mà nàng chẳng quản ngại gian nan vất vả, một thân lặn lội thăm chồng. 1- KÝ MỘNG (30/249) Thệ thủy nhật dạ lưu
GHI LẠI GIẤC MỘNG Ngày đêm nước chảy rề rề
Chú thích: Bài thơ này, Nguyễn Du nói về người vợ đă mất, em gái của Đoàn Nguyễn Tuấn. Nay nhà thơ về quê nhà ở Hà Tĩnh, nằm mộng thấy vợ vào tìm mình ở Lâm giang. (1) Cách duy: cách bức màn. Vợ Hán Đế Vũ là Lư phu nhân, có sắc đẹp và múa giỏi, nhưng chết sớm. Vũ Đế rất thương tiếc. Có người phương sĩ nói có thể chiêu hồn Lư phu nhân về. Vua bằng lòng. Ban đêm, người ấy bèn giương màn, đốt nến, để vua ngồi trong màn, nhìn sang một bức màn khác, thấy bóng một người đàn bà giống Lư phu nhân. (2) Nhược chất: tư chất yếu đuối, chỉ phụ nữ. (3) Nhu tình: mối tình vấn vương. 2- ĐIẾU LA THÀNH CA GIẢ (48/249) Một người ca nữ đất La thành chết trẻ đă gợi hứng cho Nguyễn Du làm bài thơ Điếu La Thành Ca Giả, và liên tưởng đến chuyện cũ với điển tích Liễu Kỳ Thanh. ĐIẾU LA THÀNH CA GIẢ Nhất chi nùng diễm há bồng doanh
VIẾNG CA NỮ ĐẤT LA THÀNH Một cành hoa đẹp rời cơi tiên
Chú thích: (1) La Thành: chỉ thành Nghệ An. Thành này có nhiều tên như Lam Thành, Tiểu Khẩu Thành, Nghệ An Thành, Nghĩa Liệt Thành, tục truyền trương Phụ đắp ở chốn bến Phù Thạch nơi La Giang và Lam Giang gặp nhau. Đời Lê, đă rời bỏ Phù Thạch mà lập ở xă Yên Trường, tức là Vinh ngày nay. (2) Liễu Kỳ Khanh (987-1053): tức Liễu Vĩnh, một nhà làm từ nổi tiếng đời Tống. Ông về già mới đỗ Tiến sĩ và giữ những chức quan nhỏ. Thuở thiếu thời thường lui tới các xóm chị em. Trên quan điểm của một nhà văn bất đắc chí, ông làm nhiều bài từ tả cuộc sống của kỹ nữ bị áp bức trong xă hội phong kiến và tỏ mối đồng tình với họ. Tương truyền Liễu Vĩnh chết, kỹ nữ góp tiền chôn cất, tổ chức “Ngày bảy viếng Liễu Vĩnh”, “hội viếng Liễu”. 3- MỘNG ĐẮC THÁI LIÊN (80-84/249) Bài Mộng Đắc Thái Liên gồm có năm đoạn. Khúc III nói đến một cô gái trẻ hàng xóm đi hái sen cùng tác giả. Tác giả còn đang phân vân không biết cô ta có đến không thì đă chợt nghe tiếng cười nói của cô ấy. Hẳn là buổi hái sen và người con gái đă là một vấn vương thích thú cho Nguyễn Du để ông có hứng ghi lai qua bài thơ. I Khẩn thúc giáp điệp quần (1)
II Thái, thái Tây hồ liên
III Kim thần khứ thái liên
IV Công tri liên liên hoa
V Liên diệp hà thanh thanh
CHIÊM BAO THẤY HÁI SEN I Xắn quần cánh bướm cho gọn gàng
II Hái, hái hoa Sen tại hồ Tây
III Sáng nay đi hái đóa hoa sen
IV Hoa sen thì ai cũng thích
V Lá cây sen thì xanh xanh
Chú thích: Bài này sáng tác thời làm quan với nhà Nguyễn, năm mơ thấy hái sen ở Hồ Tây hồi còn trẻ sống ở Thăng Long. (1) Giáp diệp quần: quần bay phấp phới như cánh bướm. (2) Có sách nói rằng “cô hàng xóm” trong bài thơ này là Hồ Xuân Hương, dựa theo một bài thơ coi như lưu bút của Hồ Xuân Hương, đó là bài thơ nôm gửi “Cần Chánh Điện Học Sĩ Nguyễn Hầu”. 4- LONG THÀNH CẦM GIẢ CA (119/249) Bài Long Thành Cầm Giả Ca viết về cô Cầm, một cô gái một thời nổi danh vào bậc nhất chốn Thăng Long, nhưng khi tác giả gặp lại thì cô Cầm dung nhan tàn tạ, gầy còm, ngồi nép bên góc chiếu, trông thật đáng thương. Hình ảnh đối chiếu một cô Cầm ngày xưa xinh đẹp tài cao, và một người đàn bà tiều tụy khi gặp lại đă làm Nguyễn Du không khỏi bùi ngùi thương xót và tạo nên bài thơ Long Thành Cầm Giả Ca. Long Thành Cầm Giả Ca là bài thơ đầu tiên trong tập Bắc Hành Tạp Lục, phần tiểu dẫn xin chép lại ở đây. Bài ca Người gảy đàn đất Long-Thành (Làm trong khi đi sứ). Người gảy đàn đất Long-Thành không rơ họ tên là gì. Nghe nói thuở nhỏ, nàng học đàn “Nguyễn” (đàn nguyệt ca do Nguyễn Hàm , người đời Tấn ở Trung Quốc chế ra) trong đội nữ nhạc ở cung vua Lê. Quân Tây Sơn kéo ra, các đội nhạc cũ người chết, kẻ bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ ôm đàn hát rong. những bài nàng găy đều là những khúc cung phụng găy cho vua nghe, người ngoài không hề được biết, cho nên tài nghệ của nàng nổi tiếng hay nhất một thời. Hồi còn trẻ (1792-1793?), tôi đến kinh đô thăm anh tôi (Nguyễn Nễ), ở trọ gần Giám hồ (hồ Gương). Cạnh đó các quan Tây Sơn mở cuộc hát lớn, con hát đẹp có đến vài chục người. Nàng nổi tiếng nhờ ngón đàn Nguyễn. Nàng hát cũng hay và khéo nói khôi hài, mọi người say mê, đua nhau ban thưởng từng chén rượu lớn, nàng uống hết ngay, tiền thưởng nhiều vô kể, tiền và lụa chồng đầy mặt đất. Lúc ấy tôi nấp trong bóng tối, không thấy rơ lắm. Sau được gặp ở nhà anh tôi. Nàng người thấp, má bầu, trán giô, mặt gẫy, không đẹp lắm, nhưng mước da trắng trẻo, thân hình đẫy đà, khéo trang điểm, lông mày thanh, má đánh phấn, áo màu hồng, quần lụa cánh chả, có vẻ phong nhă. Nàng hay uống rượu, hay nói pha trò, con mắt long lanh, không coi ai ra gì. Khi ở nhà anh tôi mỗi lần uống rượu thì nàng uống say đến nỗi nôn bừa băi, nằm lăn ra đất, các bạn có chê trách cũng không lấy làm điều. Sau đó vài năm, tôi rời nhà về Nam (Thái Bình), mấy năm liền không trở lại Long-Thành. Mùa Xuân năm nay (1813) tôi lại phụng mệnh sang sứ Trung Quốc, đi qua Long-Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên phủ, có gọi tất cả vài chục nữ nhạc, tôi đều không biết mặt biết tên. Chị em thay nhau múa hát. Rồi nghe một khúc đàn Nguyễn trong trẻo nổi lên, khác hẳn những khúc thường nghe, tôi lấy làm lạ, nhìn người gảy đàn thì thấy, một chị gầy gò, vẻ tiều tụy, sắc mặt đen sạm, xấu như quỷ, áo quần mặc toàn vải thô bạc thếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi im lặng ở cuối chiếu, chẳng hề nói cười, hình dáng thật khó coi. Tôi không biết nàng là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như đă quen biết, nên động lòng thương. Tiệc xong, hỏi thì chính là người trước kia đă gặp. Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế! Tôi bồi hồi, không yên, ngửng lên cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa và nay. Người ta trong cơi trăm năm, những sự vinh nhục buồn vui thật không lường được. Sau khi từ biệt trên đường đi, cảm thương vô hạn nên làm bài ca sau, để ghi lại mối cảm hứng. LONG THÀNH CẦM GIẢ CA (119/ 249) Long thành giai nhân,
Chú thích: 1-Tiến Phúc bi: bia chùa Tiến Phúc ở Nhiêu Châu, tỉnh Giang-tây. Tương truyền ông Phạm trọng Yên đời Tống, lúc làm quan ở Bá Dương, có người học trò nghèo dâng bài thơ hay, ông muốn giúp đỡ, cho rập một nghìn bản để bán lấy tiền. Chưa rập xong thì một đêm, bản in bị sét đánh vỡ tan. 2. Câu chuyện Trang Tích. Trang Tích là người nước Việt, làm quan nước Sở. Khi ông ốm, Sở vương hỏi mọi người: "Tích là kẻ tầm thường ở đất Việt, nay làm quan nước Sở, được phú quư rồi, thì còn nhớ nước Việt nữa không?". Viên thị ngự đáp: "Phàm người ta có nhớ nước cũ hay không, thường tỏ ra trong lúc đau ốm. Nếu lúc này ông ta nói tiếng Việt tức là nhớ nước Việt, bằng không thì nói tiếng nước Sở". Sở vương sai người lén nghe thì thấy Trang Tích nói tiếng Việt. 3. Trung Hòa: tên một điện của triều Lê ở Thang-Long. 4. Triền đầu: lấy khăn quấn đầu làm vật tặng thưởng. Đời Đường trong yến tiệc vua đăi, ai đứng dậy múa được ban gấm để quấn đầu như vật tặng thưởng. Về sau các món tiền thưởng cho người ca múa được gọi là triền đầu. 5- Ngũ Lăng: nơi có năm lăng tẩm của đế vương đời Hán, nơi này dân hào hoa phú quư thường ở. Bài Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị có câu: Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu. 6. Trường An: chỉ Thăng Long. 7. Sau khi Tây Sơn bại, tôi vào Nam, ư muốn nói sau năm 1802 nhà thơ vào Phú Xuân làm quan. 8. Tuyên Phủ chỉ quan trấn thủ Bắc Thành, vào lúc Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc mùa xuân 1813. 9. Nam Hà: chỉ phía Nam sông Gianh. NGƯỜI GẢY ĐÀN Ở LONG-THÀNH Người đẹp Long-Thành,
5- Trong lần thăm viếng Thăng Long trước khi đi sứ trung Quốc, ngoài cô Cầm, Nguyễn Du có dịp gặp lại vài người quen biết lúc trước. Ông cho những nhận xét về họ với tất cả chân tình. Những cô gái xinh đẹp quen biết lúc trước nay đều đă đèo bồng con trẻ, những người bạn thân thiết lúc trước nay đều đă làm ông, làm bố. THĂNG LONG I (1) (120/249) Tản Lĩnh Lô Giang tuế tuế đồng.
THĂNG LONG I Núi Tản sông Lô qua bao năm trời đều vẫn vậy.
Chú thích (1) Thăng Long: Từ đời Lư, kinh đô Việt Nam đóng tại Thăng Long. Thăng Long nghĩa đen là rồng hiện lên. Đến đời Nguyễn, Gia Long đóng đô tại Huế, và đổi chữ Thăng Long là rồng hiện thành chữ Thăng Long là thịnh vượng. Nhưng trong văn thơ, cổ nhân vẫn viết chữ theo tên cũ Thăng Long là rồng hiện. (2) Bạch đầu: Nguyễn Du mới ba mươi tuổi đă bạc đầu và dùng chữ này để nói về mình trong rất nhiều bài thơ trong Thanh Hiên Thi tập và Nam Trung tạp ngâm. Nhưng chữ bạch đầu trong bài này nói về tuổi già. Bởi Nguyễn Du rời Thăng Long lúc nhà Lê mạt (1789), vua Lê chạy sang Trung Quốc, lúc ấy Nguyễn Du mới 25 tuổi. Đến khi Gia Long lên ngôi (1802) Nguyễn Du từ Hà Tĩnh ra Thăng Long làm quan. Lúc ấy Nguyễn Du 37 tuổi. Đến khi vâng mệnh đi sứ Trung Hoa (1813), Nguyễn Du đến Thăng Long một lần nữa. Bài thơ này làm lúc ra Thăng Long để sang Trung Quốc. Lúc đó Nguyễn Du đă gần năm mươi tuổi. Cho lên mới nói Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long. 6- Một người hầu cũ của em ông ngày xưa xinh đẹp, giọng ca hay, nay đă có chồng ba con và đáng thương thay nàng vẫn còn mặc chiếc áo cũ ngày xưa. NGỘ GIA ĐỆ CỰU CA CƠ (122/249) Phồn hoa nhân vật loạn lai phi,
GẶP NGƯỜI HÁT CŨ CỦA EM TÔI Nơi chốn thị thành gặp lại người sau thời loạn,
Ghi chú: Người em ở đây có lẽ Nguyễn Du muốn nói về người em trai tên là Nguyễn Ức. Nguyễn Ức lúc bấy giờ đang làm thiềm sự bộ Công, tước hầu. Khi ghé Thăng Long trên đường đi sứ, Nguyễn Du gặp lại người bạn ca hát của người em. (1) Chim hạc đen: Ư nói Nguyễn Du xa Thăng Long lâu ngày nay mới trở lại. (2) Hồng tụ: ống tay áo mầu hồng, chỉ áo đào hát. 7- Cô gái kéo nước giếng: có lúc dù chỉ nhìn thoáng qua một người con gái cũng đủ để Nguyễn Du có hứng viết về họ như cô gái thôn dă ngày xuân ra giếng kéo nước. SƠN THÔN Vạn sơn thâm xứ tuyệt phong trần
XÓM NÚI Sâu giữa muôn núi khuất gió trần
Chú thích: (1) Cuối đời Tây Hán: Vương Măng cướp ngôi vua Hán. Lưu Tú (sau này là Quang Vũ đế, Đông Hán) khởi binh khôi phục lại cơ nghiệp. Khi tiến vào kinh đô Lạc Dương, phu lăo mừng nói: “Không ngờ ngày nay lại trông thấy uy nghi nhà Hán”. (2) Câu này lấy trong tích bài Đào Nguyên kư của Đào Tiềm. Đời Tần tàn bạo, có một nhóm người đem nhau vào vùng Đào Nguyên ở, không đi lại với người ngoài núi. Họ không theo niên hiệu Tần nữa. 8- Một lần trông thấy người đẹp xa vời cách tường cao cũng đủ làm Nguyển Du chao đao. NGẪU THƯ CÔNG QUÁN BÍCH I (87/249) Triêu san nhất vu phạn
NGẪU ĐỀ VÁCH NHÀ CÔNG I Sớm lùa một bát cơm
Chú thích: (1) Câu này vốn khuyết hai chữ, có lẽ nhà thơ dùng câu thơ cổ “Đỗ vũ nhất thanh xuân khứ hĩ ”. 9- THƯƠNG NGÔ TRÚC CHI CA Trong 15 bài thơ Hán ngắn Thương Ngô Trúc Chi Ca, ba bài kể lại hình ảnh một người đàn bà trẻ nhìn như đang giận chồng, một cô gái đầu cài hoa vàng quá ham vui đứng trước khoang thuyền không tránh người lên xuống, hay cô gái thị thành tóc bới cao, cài lông chim thúy đẹp rúng động lòng người. Bài số X, XI, XIV của Thương Ngô Trúc Chi Ca (145-159/249) được trích dẫn ở đây. X (154/249) Ban trúc yên đồng xích nhị trường (1),
1- Ban trúc: trúc hoạ Tục truyền rằng Nga Hoàng và Nữ Anh khóc vua Thuấn, nước mắt vẩy vào bụi trúc thành đốm. 2- Vũ tiền: tức Vũ tiền trà, là một loại trà ngon, hái trước tiết cốc vũ (tháng ba). XI (155/249) Thập chích long châu nhất tự trần,
Mười thuyền rồng sắp hàng chữ nhất,
Chú thích: 1. Linh quân: tức Khuất nguyên, điển tích rằng Khuất nguyên trầm mình trên sông Mịch-la, một con sông nhỏ chảy vào sông Tương. Hàng năm cứ vào ngày giỗ Khuất nguyên, người Trung Hoa thường tổ chức đua thuyền tượng trưng việc tìm thi thể của nhà thơ, để tưởng nhớ Khuất nguyên. XIV (158/249) Trường quần tập tập duệ khinh tiêu,
Quần dài, áo lụa nàng thướt tha,
Chú thích: (1) Quỷ đầu: một loại tiền cổ. Những khuôn mặt phụ nữ trong lịch sử Trung Quốc. Người đàn bà thời xưa nói chung chiếm một địa vị rất khiêm nhường trong xă hội, và những câu chuyện liên quan với họ cũng rất hạn chế. Cũng như những văn nhân khác, Nguyễn Du có những bài thơ viết về những đề tài cao cả, ẩn ư chính trị, hay cá tính anh hùng của người đàn ông, nhưng thêm vào đó Nguyễn Du lại dành một số bài viết về nữ giới, với lời thơ rất giản dị nhưng súc tích, gần gũi với họ, hay một số bài với nhiều suy nghĩ sâu sắc trong những bài thơ ca tụng họ. Nguyễn Du rất có cảm tình với nữ giới, và điều này lại biểu lộ rơ hơn khi ông viết về những người đẹp trong lịch sử Trung Quốc. 1- Bài thơ Độc Thanh Tiểu Kư nói về Tiểu Thanh, một người đẹp đa tài, vắn số. Phải ghi thêm rằng trong bài này, nổi tiếng nhất là hai câu thơ chót khi Nguyễn Du so sánh bản thân với Tiểu Thanh trên phương diện lưu danh tiếng lại cho hậu thế. ĐỘC TIỂU THANH KƯ (1) (78/249) Tây Hồ hoa uyển tận thành khư
ĐỌC TẬP TIỂU THANH KƯ Hồ Tây vườn Uyển thành gò hoang
Chú thích: (1) Tiểu Thanh Kư: chuyện kể cuộc đời một người con gái có tài có sắc, sống vào đầu đời Minh. Nàng họ Phùng, lấy lẽ một người cũng tên Phùng, vì tránh tên chồng nên gọi là Tiểu Thanh. Vợ cả ghen, bắt ở riêng trong một ngôi nhà trên núi Cô Sơn, cạnh Tây Hồ, chẳng bao lâu nàng buồn mà chết, lúc mới 18 tuổi. Nay ở Cô Sơn vẫn còn mộ. (2) Phần dư: tức Phần dư cảo, tên tập thơ bị đốt còn sót lại. Tiểu Thanh có một tập thơ nói tâm sự của mình, lúc nàng chết rồi, vợ cả ghen, lấy đốt đi còn lại một số bài, người ta thu thập lại gọi là Phần dư cảo. (3) Tam bách dư niên: có thuyết cho rằng ba trăm năm là tính từ khi Tiểu Thanh mất cho đến lúc Nguyễn Du làm bài thơ trên. 2- Hình ảnh hai người đàn bà Nga Hoàng và Nữ Anh vợ vua Ngu Thuấn đi tìm chồng ngồi khóc bên bờ sông Tương đă là động lực gây cảm xúc mănh liệt cho Nguyễn Du đến nỗi ông viết đến bốn đoản thơ trong Thương Ngô Tức Sự, để nhắc đến hai bà và một bài khác để nhắc lại tích nước mắt hai bà phi vẩy vào bụi trúc thành vết lốm đốm. THƯƠNG-NGÔ TỨC SỰ (142/249) Ngu đế nam tuần cánh bất hoàn (1)
TỨC CẢNH THƯƠNG-NGÔ Vua Thuấn nam tuần không trở về
Ghi chú: 1. Ngu đế nam tuần: Sử chép vua Thuấn nam tuần (tỉnh Hồ-nam) chết bất thình lình và an táng tại đó. 2. Nhị phi: Hai bà phi của Thuấn, Nga Hoàng và Nữ Oanh, khóc vua Thuấn nước mắt rơi làm lốm đốm trên lá trúc. 3. Cửu nghi: dẫy núi Cửu nghi cũng gọi là Thương ngô, ở tỉnh Hồ-nam. 4. Tì bà hành: chỉ tiếng đàn tì bà của Nga Hoàng và Nữ Anh, chứ không phải tì bà nói trong bài Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị. THƯƠNG NGÔ MỘ VŨ (143/249) Vũ trệ Tầm giang hiểu phát trì (1),
THƯƠNG PHỐ CHIỀU MƯA Tầm giang mưa sớm, rời bên trưa,
Ghi chú: 1. Tầm-giang: tên một con sông thuộc huyện Quế-bình, tỉnh Quảng-tây, chảy qua Thương-ngô vào Quế-giang. 2. Ngô thành: có hai nơi gọi tên Thương-ngô. Tỉnh Quảng tây có Thương-ngô (Ngô châu). Ở tỉnh Hồ-Nam, Thưong-ngô là tên dăy núi cũng gọi là núi Cửu nghi. Bài thơ này hai câu đầu nói đến Thưong-ngô ở Quảng tây, vì câu bẩy nhắc đến Tương đàm là một huyện thuộc Hồ-nam. Nhưng câu bốn lại nói nhìn về núi Cửu nghi (Thương-ngô, Hồ-nam), nơi vua Thuấn mất nên trạnh lòng nhớ đế hai bà phi của vua Thuấn. 3. Tam Sở: ba miền nước Sở gồm Tây Sở, Nam Sở, và Đông Sở, nay là đất các tỉnh Hồ-nam, Hồ-bắc. 4. Hạ: chữ hạ có sách diễn là chỉ nước Trung-quốc (Hoa hạ), ư nói đi trên chiếc thuyền nhỏ thì khó lòng mà đi khắp Trung quốc. THƯƠNG NGÔ TRÚC CHI CA III (147/249) Vũ tự bàng đà vân tự si,
Mưa rơi sướt mướt, mây lững lờ,
Chú thích: 1. Cửu nghi sơn: còn gọi là núi Thương-ngô, núi có chín ngọn thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung-quốc. 2. Ngu vương: Vua Thuấn đời nhà Ngu, nên gọi là Ngu vương. 3. Nhị phi: hai vợ của vua Thuấn tên Nga Hoàng và Nữ Anh. Tích kể rằng sau khi vua Thuấn mất, hai bà đi tìm, đến sông Tương, trông lên núi Thương-ngô than khóc rồi gieo mình xuống sông Tương. VIII (152/249) Kê-lung sơn tại thuỷ trung ương,
Núi Kê-Lung ở giữa giòng sông,
Chú thích: (1) Thiên phi các : đền thờ hai bà phi, con gái vua Nghiêu tên Nga Hoàng và Nữ Anh. 3- Nguyễn Du đặc biệt chú ư đến Dương Quí Phi. Người đời cho rằng vì Đường Minh Hoàng quá mê sắc đẹp của Dương Quí Phi mà xao nhăng việc nước, thì Nguyễn Du lại cho rằng việc mất nước là do triều đình bất tài, cứ như phỗng đứng nên không đuổi được giặc, chứ tại sao lại đổ tội cho Dương Quí Phi. DƯƠNG PHI CỐ LƯ (160/249) (1) Sơn vân tước lược ngạn hoa minh, QUÊ CŨ DƯƠNG QUÍ PHI Núi mây thưa thớt hoa rực rỡ bên bờ,
(*) Nguyễn Du không đi qua vùng này trên đường đi xứ, lư do tại sao bài thơ này sắp ở đây còn là nghi vấn. Chú thích : 1. Dương Quí Phi : tức Dương Ngọc Hoàn là Quí Phi của Đường Minh Hoàng. Quê ở làng Hoàng Nông, huyện Hòa Âm, tỉnh Thiểm Tây ngày nay. Vì An Lộc Sơn nổi loạn, Đường Minh Hoàng (Đường Huyền Tông) phải chạy vào đất Thục. Đến đèo Mă Ngôi, quân lính đòi giết Dương Quí Phi và người anh tên Dương Quốc Trung, là những người làm Đường Minh Hoàng mê muội mà mất nước (Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành). Quốc Trung bị quân lính giết chết, Dương Quí Phi bị buộc thắt cổ tự sát ở đâỵ. 2. Lập trượng: Đứng như gậy, chỉ quan bù nhìn không dám can gián vua, để xảy ra cuộc loạn An Lộc Sơn. Do lệ thiết triều nhà Đường (lập trượng mă), có tám con ngựa phải đứng chầu trong hàng gậy làm nghi vệ cho vuạ Con nào kêu hoặc đụng đậy không đúng phép là bị thay thế. 3. Nam Nội : Tức cung Hưng Khánh, nơi Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi thường ra chơi. 4. Tây Giao : Cánh đồng ở phía tây Tràng An, chỉ gò Mă Ngôi nơi Dương Quí Phi bị buộc phải thắt cổ chết. 4- Bài Tam Tiệt Miếu viết về người vợ, người thiếp và con gái của Lưu Thời Cửu, ca tụng ba tấm gương sáng nghìn đời còn sáng tỏ. TAM LIỆT MIẾU (63/249) Thái nữ sinh sồ Trác nữ bôn (1),
MIẾU BA LIỆT NỮ Nàng Thái sinh con, Trác theo tình,
Chú thích: Tam liệt miếu: tác giả chú thích như sau: "Khoảng niên hiệu Chính đức nhà Minh (1506-1521), Lưu Thời Cửu đi nhậm chức, thuyền tới nơi lập miếu thì bị bọn cướp giết. Cả vợ, thiếp, và con gái đều không chịu nhục, nhảy xuống sông chết. Khoảng năm Gia tĩnh (1522-1526) được biểu dương và lập miếu thờ". 1. Thái nữ : chỉ Thái Diễm, tự Văn Cơ, con gái Thái Ung, cuối đời Đông Hán, gặp lúc loạn lạc, bị quân Hung nô bắt đi ,sang ở Hung nô mười hai năm, sinh được hai con. Sau Tào Tháo, bạn của Thái Ung đem vàng bạc sang chuộc về. Thái nữ là tác giả bài Bi phẫn thi. Trác nữ : chỉ Trác Văn Quân, con gái Trác Vương Tôn, người đời Hán, goá chồng về nhà. Gặp ngày Tư Mă Tương Như đến dự tiệc, thấy Trác Văn Quân, bèn gẩy khúc Phượng Cầu Hoàng quyến rũ. Trác Văn Quân bỏ nhà đi theo. Theo thời xưa hai người đàn bà này không giữ đúng lễ nghi phong tục thời đó. 2. Tu như kích: râu như mác. Sách Nam sử chép chuyện Chử Ngạn Hồi có câu: "Râu ông cứng như mác mà sao không có chí khí trượng phu.", ư nói những người chỉ tốt mă bề ngoài kỳ thực vô tài. 5. Người đẹp Ngu Cơ dược Nguyễn Du nhắc đến với nhiều mến phục. SỞ BÁ VƯƠNG MỘ I (224/249) Bạt sơn giang đỉnh nại thiên hà? (1)
MỘ SỞ BÁ VƯƠNG I Rời núi nhấc vạc trời chẳng trơ
Chú thích: Sở Bá Vương : tức Hạng Vũ. (1) Bạt Sơn Giang Đỉnh: nhổ núi, nhắc vạc, chỉ sức mạnh vô địch của Hạng Vũ. (2) Bá Thượng: tên đất nay thuộc tỉnh Thiểm Tây. Khi Bái Công tức Hán Cao Tổ ở đất Bá Thượng, có đám mẩy nổi trên trời như hình con rồng năm sắc; có người cho đó làm điềm làm vua (thiên tử khí). (3) Mỹ nhân ca: khi bị vây chặt ở đất Cai HaÏ, Hạng Vũ ngồi trong trướng nghe bài ca Ngu cơ hát họa lại bài Ngu hề. (4) Ư nhắc đến chuyện các nhà nho bàn luận về việc Hạng Vũ sau khi thua ở Cai Hai, không chịu về Giang Đông. (5) Trường Lăng: tên huyện thuộc tỉnh Thiểm Tây. Mộ Hán Cao Tổ ở đấy. (6) Xích mi: toán quân nông dân khởi nghĩa thời Tây Hán. Vì sợ lẫn lộn với quân lính của Vương Măng, nên họ bôi đỏ lông mày (xích my). Sau bị Hán Quang Vũ đán áp. 6- Ngoài những người đàn bà nổi tiếng trên còn có chị em Tiểu Kiều, Đại Kiều thời Tam quốc. ĐỒNG TƯỚC ĐÀI (205/249) .... Đăn kiến giang biên Đồng Tước đài
Còn đài Đồng Tước nơi ven sông
Đổng Tước Đài: một kiến trúc tráng lệ do Tào Tháo dựng lên, di tích nay còn ở phía tây nam huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam. (2) Ngoc Long, Kim Phượng: là hai tòa lầu ở hai bên đài Đồng Tước. (3) Tiểu Kiều: vợ Chu Du, Tào Tháo xây đài Đồng Tước, định bắt hai chị em Đại Kiều, Tiểu Kiều ở Đông Ngô về cho ở đấy. CHU LANG MỘ (232/249) Thiêu tận Tào gia bách vạn binh (1)
MỘ CHU LANG Hủy mất nhà Tào trăm vạn binh
Chú thích: Chu Lang: tức Chu Du, mưu sĩ Đông Ngô. (1) Tào Tháo đem trăm vạn quân xuống đánh Đông Ngô, Chu Du liên kết với Khổng Minh đánh hỏa công, Tào Tháo thua. (2) Đồng niên: Chu Du với Tôn Sách là bạn cùng một tuổi, lại có tình anh em rể. (3) Tri âm: Khổng Minh chọc tức Chu Du ba lần, Chu Du uất mà chết. Khổng Minh khóc Chu Du nhận là bạn tri âm. (4) Nhị Kiều: Đại Kiều và Tiểu Kiều, hai chị em, vợ Chu Du và Tôn Sách, nổi tiếng có sắc đẹp. (5) Tào Tháo dựng đài Đồng Tước ở bến sông Chương, định khi thu phục Đông Ngô sẽ bắt hai nàng Kiều cho ở trong đài (Xem bài số 205/249 : Đồng Tước Đài). 7- Nguyễn Du xúc động khi nhìn đá ngóng chồng, theo tích do hóa thân của người đàn bà ôm con chờ chồng trên đầu núi ngàn năm hóa thành đá. VỌNG PHU THẠCH (72/249) Thạnh da? nhân da? bỉ hà nhân?
ĐÁ NGÓNG CHỒNG Phải người? Phải đá? Hỏi ai đây?
Chú thích: Vọng Phu Thạch: Nguyễn Du tả núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, khi đi nghênh tiếp sứ thần nhà Thanh sang phong sắc cho Gia Long năm Quí Hợi (1803). trường hợp này cũng giống như những bài Lạng Sơn Đạo Trung, Đề Nhị Thanh Động, Quỉ Môn Đạo Trung. (1) Vân vũ: Thần nữ ở Vu Sơn làm mây buổi sáng, làm mưa buổi chiều. Về sau người ta dùng điển này để chỉ chuyện tình ái. 8- Với những người đàn bà trên Nguyễn Du thương xót bao nhiêu thì khi viết về vợ Tần Cối ông lại khinh bỉ, dè bĩu, nặng lời mỉa mai bấy nhiêu. Ngoài sự mắng nhiếc, khinh miệt vợ chồng Tấn Cối, ông lại còn bày tỏ tư kiến rằng việc dựng hai pho tượng sắt vợ chồng Tần Cối quỳ trước mộ Nhạc Phi để mọi người thăm viếng Nhạc Phi có thể đánh đập lên đầu hay phun nhổ vào mặt vợ chồng Tần Cối thì chỉ oan cho đống sắt vô tri vô giác, và lại làm cho vợ chồng Tần Cối được bất tử cùng vị anh hùng Nhạc Phi. VƯƠNG THỊ TƯỢNG (203/249) Nhị thủ VƯƠNG THỊ TƯỢNG I Thiệt trường tam xích cánh hà vi ?
TƯỢNG VƯƠNG THỊ I Lưỡi thị ba thước làm chi nhỉ
Chú thích: Vương thị : vợ gian thần Tần Cối đời Tống (960-1279). (1) Tống bị Kim xâm lăng, Nhạc phi chủ trương đánh, Tần Cối chủ trương hòa. Tần Cối giả lệnh vua bắt Nhac phi bỏ ngục, coi như bắt được hổ, nếu để sổng ra thì sẽ có mối lo về sau nên giết đi. (2) Ẩm long: Nhạc phi mang quan đánh Kim, có hẹn với tướng sĩ rằng: “Thẳng đến Hoàng Long cùng các ngươi uống rượu mừng” (Hoàng Long là thủ đô nhà Kim). (3) Ở Hàng Châu hiện có mộ Nhạc phi, phía trước có tượng vơ chồng Tần Cối quì chịu tội. Vương thị làm điều phi nghĩa, pho tượng của thị làm nhục đến phụ nữ. (4) Mạc tư hữu: chẳng cần có tội. (Xem chú thích bài Nhạc Vũ mục mộ, số 200). VƯƠNG THỊ TƯỢNG II (204/249) Thâm đồ mật toán thắng phu quân
TƯỢNG VƯƠNG THỊ II Mưu thâm sâu sắc quá anh chồng
Chú thích: (1) Thần kê: do câu “Tẫn kê tư thần”; gà mái gáy sớm, chỉ người đàn bà lộng quyền. (2) Nhạc gia quân: quân họ Nhạc. Quân Kim rất sợ Nhạc phi, thường bảo nhau; “Chuyển núi thì dễ, phá đội quân của họ Nhạc thì khó”. KẾT LUẬN Tóm lại, bàn về đặc điểm nghệ thuật của Thơ Hán Nguyễn Du không phải là mục đích của bài viết, ở đây tác giả chỉ muốn nói đến cái tình cảm của Nguyễn Du thể hiện qua một số bài thơ. Cái tình cảm rất thân thuộc, rất thân ái của một văn hào, đă mang dòng thơ truyền đạt đến độc giả một cách rất hay, rất tài tình, và rất chân thật. Trong một xă hội còn nặng phong kiến, sự biểu lộ tình cảm của Nguyễn Du với nữ giới thật đặc biệt, và chính sự đặc biệt này đă là nguyên nhân để tác giả viết về Thơ Hán Nguyễn Du và những khuôn mặt nữ giới qua thơ của ông với tất cả lòng cảm phục và ngưỡng vọng. 15 January 2005
To Bac Hanh Tap Luc To Thanh Hien Thi Tap |