http://www.pgvn-haitrieuam.org
KINH LUẬN DO H̉A THƯỢNG
CHỨNG ĐẠO CA GIÁO ÁN CAO CẤP PHẬT HỌC
Nguyên tác HUYỀN GIÁC Thiền Sư
| HOME | BÁT NHĂ | DUY MA CẬT | DUY THỨC HỌC | ĐẠI BÁT NIẾT BÀN | ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG NGHĨA | NHƯ LAI VIÊN GIÁC | PHÁP HOA | THỦ LĂNG NGHIÊM |
TIỂU DẪN 4/10/98 Băng 1 CHỨNG ĐẠO CA là tác phẩm thi ca được viết ra, nói lên tŕnh độ nhận thức chân lư, khả năng thiền quán tư duy sâu sắc của tác giả đối với chánh pháp liễu nghĩa thượng thừa của đạo Phật. Tác phẩm có năm mươi sáu (56) thi ca, gồm hai trăm tám mươi tám câu (288). Mỗi thi ca là một "ngọn đèn pha" cực mạnh quét sạch hết những bóng đêm tà kiến. Mỗi câu là một làn gió nhẹ, vừa mát mẻ, vừa thổi tan những đám mây mù huyển hoặc, vu vơ, cho bầu trời chân lư hiển lộ lồng lộng, một màu trong xanh ngăn ngắt. Tư tưởng ở nội dung, ngữ ngôn văn tự qua h́nh thức đáng được tôn vinh là khúc ca CHỨNG ĐẠO của con người CHỨNG ĐẠO. Do vậy, tác phẩm có cái nhan đề CHỨNG ĐẠO CA, thiết tưởng không phải là ngôn từ cường điệu. Tác giả Chứng Đạo Ca là Huyền Giác Thiền Sư. Sử sách Phật giáo Trung Hoa không nói nhiều về tông chi gia phả, chỉ nói Sư là con của gia đ́nh họ Đới. Sanh vào năm 665 và mất năm 713 đời nhà Đường. Quê của Sư ở huyện Vĩnh Gia, xưa thuộc châu Ôn, nay là tỉnh Chiết Giang ở Trung quốc. Sư xuất gia vào tuổi ấu niên, tư chất thông minh, ham tu hiếu học, đọc nhiều kinh điển Phật đến độ tinh thông. Những kinh điển thuộc hệ tư tưởng liễu nghĩa thượng thừa như Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Đại Phương Đẳng Viên Giác, Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Duy Ma Cật, Kinh Bát Nhă, Kinh Pháp Hoa, Kinh Niết Bàn....Sư vận dụng một cách vô cùng thông minh, tài t́nh và "lợi hại" trong việc "công phá" tà kiến ngoại lai, hiển dương chánh pháp Đại thừa, mở đường chỉ lối cho những ai chủng tánh Đại thừa muốn đi con đường "đại ngộ". Bỉ nhân tôi là một hậu học cô lậu quả văn, hữu duyên được nghiền ngẫm tác phẩm CHỨNG ĐẠO CA. Khi đọc tôi cảm nghe như thân tâm bay bổng ra khỏi hết mọi vướng mắc ở cơi đời, mà từ lâu ḿnh lầm lạc, tự trói thân để chịu cực nhọc, tự quản thúc tâm để ưu tư, sợ hăi triền miên. Tâm đắc sâu đậm, sung sướng tràn dâng, tôi phấn đấu vượt trở ngại: "mắt mờ". Thị lực yếu, tôi vẫn quyết chí dịch tác phẩm CHỨNG ĐẠO CA từ Hán văn ra Việt văn bằng thể văn có âm điệu và tiết tấu để đọc cho dễ nhớ. Rồi sau đó, viết phần TRỰC CHỈ để b́nh thêm.. CHỨNG ĐẠO CA là một tác phẩm văn học của Phật giáo Trung Hoa và cả Phật giáo Việt Nam nữa. CHỨNG ĐẠO CA là một giáo án, tôi soạn để giảng cho tăng ni sinh các trường, lớp Cao Đẳng Nội Minh. CHỨNG ĐẠO CA là tiếng sấm long trời để đánh thức những ai mệnh danh là đệ tử Phật mà măi li b́, ngủ say sưa trong mộng mị, mê tín, hoang đường. CHỨNG ĐẠO CA là ngọn đuốc thiêng bất diệt dành cho những chủng tánh Đại thừa tiến bước trên lộ tŕnh đại ngộ. Viết
tại Thao Hối Am CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO 11/10/98 Băng 2 và 18/10/98 Băng 3 Phiên âm: QUÂN BẤT KIẾN !
Dịch nghĩa: AI CÓ BIẾT !
* Thân ảo hóa với pháp thân cũng vậy *
Nhận thức rơ hai thân pháp hóa (1)
*
Thân ngũ uẩn chỉ là phù vân tụ tán
TRƯC CHỈ Đi con đường đạo, thường phải qua ba giai đoạn. "Học đạo", Hành đạo", và "Chứng đạo". Đến giai đoạn CHỨNG ĐẠO, được gọi là con người "nhàn đạo". Người "nhàn đạo" là người đă vượt qua giai đoạn "học đạo" và "hành đạo". V́ vậy, người "chứng đạo"c̣n được gọi là người TUYỆT HỌC, là người đạt đến VÔ VI, cho nên bậc TUYỆT HỌC, VÔ VI, NHÀN ĐẠO tức là con người CHỨNG ĐẠO. Cái thấy của người chứng đạo, không thấy qua cái thấy của nhục nhăn b́nh thường mà thấy bằng "Tuệ nhăn". Về "cái thấy", giáo lư đạo Phật dạy có năm cách nh́n thấy khác nhau. Dựa trên thành quả tu chứng mà cái thấy của người học đạo, hành đạo và chứng đạo đối với hiện tượng vạn hữu chia thành năm cách thấy: Cái thấy qua "nhục nhăn". Cái thấy qua "thiên nhăn". Cái thấy qua "pháp nhăn". Cái thấy qua "tuệ nhăn". Cái thấy qua "Phật nhăn". Cái thấy qua "nhục nhăn" là cái thấy "tầm thường". Cái thấy qua "thiên nhăn" là cái thấy "b́nh thường". Cái thấy qua "pháp nhăn" là cái thấy của người "đạt đạo", của hàng tiểu thừa THANH VĂN, DUYÊN GIÁC. Cái thấy qua "Tuệ nhăn" là cái thấy của người CHỨNG ĐẠO, cái thấy của căn cơ Đại thừa, của Bồ tát trên đoạn đường gần tới VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC của "Phật nhăn". Người CHỨNG ĐẠO, nh́n thấy thấu triệt bản chất căn nguyên của vạn pháp. Nói cách khác, người chứng đạo nh́n hiện tượng vạn pháp họ thấy được cái "thực tướng" của vạn pháp. Họ biết rất kỹ rằng cái tướng thực của vạn pháp là "không có ǵ". Tất cả chỉ là duyên sanh, mà duyên sanh th́ như huyễn, không thật có. Qua cái thấy của con người chứng đạo, "vọng tưởng" đă là vọng th́ c̣n quan tâm, c̣n mơ tưởng, c̣n kết giao, gá nghĩa với nó được sao ? Biết nó vọng th́ ḿnh đă "không vọng". Không vọng là đă tự "chơn" rồi. Do vậy, "vọng" không phải "trừ", "chơn" không cầu, không cần mơ ước mà tự có. Nước trong, trăng hiện, mây tan, trời hiện, phiền năo vô minh hết Phật tánh hiện. Trăng vốn sẵn có trong lúc nước ao hồ vẩn đục. Phật tánh thanh tịnh vốn có trong lúc con người biểu lộ đầy những phiền năo vô minh đau khổ. Giác là Phật, mê là tục tử phàm phu.
Kinh điển Phật thường đề cập "Tam thân" của con người chứng đạo. Pháp thân là cái bản thể châu biến. Về thời gian xuyên suốt quá khứ, hiện tại và vị lai. Về không gian khắp cùng đông, tây, nam, bắc, tứ duy, thượng, hạ. Từ Pháp thân đó, duyên sanh ra các hiện tượng vạn hữu. Ảo hóa thân là một hiện tượng trong vô vàn hiện tượng "duyên sanh". V́ thế cho nên ảo hóa thân không ngoài Pháp thân. Từ nơi Pháp thân duyên khởi sanh ra ảo hóa thân. Ảo hóa thân và Pháp, thân không phải LÀ mà không phải KHÔNG LÀ. Đó là chân lư "Bất tức, bất ly", trung đạo. Bảo rằng: lu, hũ, chum, ché không phải đất. Đúng, nhưng không đúng trọn vẹn. Bảo rằng: lu, hũ, chum, ché là đất. Đúng, nhưng cũng không đúng trọn vẹn. Mà phải hiểu rằng: lu, hũ, chum, ché không "là" đất nhưng chúng không ngoài đất. Đất không phải là lu, hũ, chum, ché, nhưng ngoài đất không làm sao có lu, hũ, chum, ché. Người biết học đạo, hành đạo theo chánh pháp, không xem khinh thân ảo hóa, v́ biết rằng thân ảo hóa là diệu dụng duyên khởi của Pháp thân. Thân ảo hóa và Pháp thân "bất tức mà bất ly" như đồ gốm và đất sét của đại địa mênh mông kia vậy.
Nhận rơ và thực chứng được bản thể thanh tịnh châu biến, duyên sanh mầu nhiệm của Pháp thân, bấy giờ chợt tỉnh và thấy rằng tất cả hiện tượng vạn hữu có cùng một bản thể chung cùng, chỉ do nhân duyên không đồng mà có sự sai khác. Dù hiện tượng vạn hữu có ngàn sai muôn khác nhưng cái thấy của người chứng đạo: Tất cả cùng một thể thanh tịnh không hề có sự vật này là nguyên nhân gây đau khổ cho sự vật nọ.
"Vô nhất vật" là do người chứng đạo sử dụng tuệ nhăn, nh́n vạn pháp bên mặt Tổng. Thấy có nhiều "vạn vật" tại v́ dùng nhục nhăn nh́n vạn pháp bên mặt Dị Biệt duyên sanh của nó. Từ nhận thức đó, người chứng đạo thấy rằng: "duyên sanh" vạn pháp "vô t́nh", cũng như duyên sanh vạn loại "hữu t́nh", cùng có chung một "bản nguyên", một cội nguồn thanh tịnh là "Thiên chân Phật".
Dưới con mắt của người chứng đạo, thân con người kết hợp bởi ngũ uẩn, duyên sanh. V́ duyên sanh cho nên thân của phàm nhân hay thân của thánh đức đều chung một dạng "phù hư". V́ là "phù hư" cho nên nó sanh diệt, khứ lai, tụ tán. Cái điểm ưu việt khác hơn người của con người chứng đạo là họ thấy rơ và biết kỹ rằng phù vân dù có sanh diệt, khứ lai, tụ tán nhưng nó không bao giờ mất mà nó vĩnh cửu khứ lai, sanh diệt, tụ tán trong bầu hư không vốn dĩ bất sanh bất diệt. Dưới cái nh́n của người chứng đạo, vấn đề sinh tử chỉ là chuyện tầm thường như vô vàn sự vật diệt sanh tan hợp khứ lai b́nh thường khác. Tham, sân, si nhà Phật gọi chúng là "Tam độc". V́ tánh tác hại của chúng gây cho loài người không sao kể hết những biến chứng khổ đau cùng cực do chúng gây ra. Nhưng b́nh tâm mà nói. Vận dụng tuệ nhăn mà nh́n th́ "tam độc" không có thực tánh. Tam độc cũng có thể xuất hiện khiến cho con người khổ đau cùng cực. Tam độc cũng có thể biến mất không để lại một bóng dáng, một dấu vết xấu xa nào. Tam độc có hay không có, tùy thuộc ở con người MÊ hay GIÁC. Thực chất của tam độc là không có chất. Chúng như những bong bóng nổi ch́m sanh diệt của những con sóng vỗ mặt ghềnh ! Hiểu rơ chân lư đó, đối với sự tử sanh, sanh diệt của tự thân cũng như của hiện tượng vạn pháp, người chứng đạo thấy bằng cái thấy b́nh tĩnh, an nhiên, không có ǵ phải lo âu, phải sợ hăi. Chẳng những thế, người chứng đạo c̣n thấy biết rơ: Khi ḿnh sanh ra từ đâu đến và lúc chết sẽ đi về đâu ! *****Top
CÁI
THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
Đấy
lẽ thật, đây lời nói thật TRỰC CHỈ Người chứng đạo quán triệt thật tướng của vạn pháp là vô tướng, người ta sẽ không c̣n chấp NHƠN và PHÁP. Do diệt bỏ ư niệm chấp mà tâm hồn thanh thoát khinh an đến độ tự tại NHƯ NHƯ BẤT ĐỘNG. V́ vậy, cái gọi là nghiệp A tỳ nếu có, cũng tự hóa giải tiêu vong. Đó là sự thật mà đạo lư có thể chứng minh. Nghiệp A tỳ nếu có, nó phát nguyên từ ư niệm chấp mắc. Chấp nhơn và chấp pháp là hai đối tượng chấp, nó sanh ra vô vàn đau khổ và là nguyên nhân đau khổ. Tám mươi bốn ngàn trần lao phiền năo đều do hai thứ chấp NHƠN PHÁP mà ra. Thấy biết rơ tánh chất VÔ NHƠN, VÔ PHÁP th́ diệt hết khổ nạn A tỳ trong sát na là chân lư đương nhiên vậy. Người học Phật, tu Phật không được THỀ. V́ thiết tha với chân lư, v́ muốn truyền trao chánh pháp trong sáng cho mọi người con Phật, tác giả Chứng Đạo Ca phải thốt ra lời: như cam kết, như tự THỀ để nói lên nỗi ḷng thành thật và tha thiết đối với chánh pháp. "Được phép thệ, dù thề độc cũng xin cam nhận". *****Top
CÁI THẤY
CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Người tu hành, đến một lúc nào đó có thể chợt tỉnh thức và khi tỉnh thức người ta có khả năng thể nhập, đi sâu vàoNhư Lai Thiền. Như Lai Thiền là thứ Thiền chỉ khi nào đến địa vị Như Lai mới có. Thể nhập Như Lai Thiền đối với vạn pháp không cần tu mà vạn hạnh tự nhiên đă sẵn đủ. Thể nhập Như Lai Thiền với lục độ không cần hành mà hành một cách viên măn rồi. Bởi v́ Như Lai Thiền là thứ Thiền viên măn và siêu viên măn nữa. Vậy NHƯ LAI THIỀN là THIỀN như thế nào ? Đáp: Như Lai Thiền là Thiền không cần ngồi, v́ nó vượt cái cần thiết ngồi. Như Lai Thiền không cần định tâm vắng lặng, v́ nó vượt ngoài cái cần thiết định tâm vắng lặng. Như Lai Thiền là thứ Thiền không cần gia công dụng ư để thiền, mà thiền trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi và thiền ở mọi nơi chốn, ở mọi thời gian. Như Lai Thiền là kết quả, là THIỀN RỒI tất cả tám muôn bốn ngàn thứ thiền khác. . Cho nên tỉnh thức và thể nhập Như Lai Thiền th́ không đức tốt, hạnh lành nào là không viên măn. Thành quả của Như Lai thiền được đúc kết qua các tiêu chuẩn như sau:
Có ngần ấy tiêu chuẩn th́ những đức tốt, hạnh lành trên cơi đời này có cái thứ nào mà c̣n thiếu ! "Lục độ vạn hạnh thể trung viên", đối với con người "Đốn giác liễu Như Lai thiền" hẳn không phải là thứ danh ngôn cường điệu. Người đệ tử Phật có học Phật thật, có ham tu thật và có hiểu kỹ về Phật, người ta không thèm sợ sáu nẻo luân hồi như là: cảnh giới địa ngục, cảnh giới ngạ quỷ, cảnh giới súc sanh, cảnh giới người, cảnh giới A tu la, và cảnh giới trời ở ngoại cảnh. Mà người ta chỉ quan tâm "Lục Thú" ở nội tâm. Lục thú ở nội tâm nó trực tiếp tác động hoành hành cuộc sống hiện tại của con người. Đó mới là đáng lo sợ. Không sợ sự luân hồi của lục thú nội tâm mà chỉ lo sợ cho sự luân hồi lục thú ở kiếp tương lai th́ quả là con người giàu tưởng tượng ! "Chẳng khác chi người chưa làm giàu mà sợ ăn cướp. Chưa ăn cướp mà lo sợ ở tù!" Vấn đề "đại thiên thế giới, cơi Ta bà" có hay không ? Vấn đề "Tây phương Cực lạc" không hay có ? Đó là vấn đề người học Phật phải quán triệt sâu sắc. Y cứ nền giáo lư liễu nghĩa thượng thừa và sử dụng tuệ nhăn mà nh́n vũ trụ vạn hữu trong pháp giới mười phương, th́ pháp giới chỉ có một. Pháp giới "nhất chân" không có hai, không có pháp giới nào khác với pháp giới nào. Pháp giới có cùng một bản thể "chân như" y nhau. V́ "chân" cho nên không thể tiêu hoại cho mất đi. V́ "như" cho nên không thể tăng bổ cho thêm nhiều. V́ "chân như" cho nên mười phương pháp giới đồng một thể: Bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Qua cái thấy của tuệ nhăn, chỉ nói tuệ nhăn của người chủng tánh Đại thừa thôi, pháp giới đă là "nhất chân" rồi. Do nghĩa đó, người chứng đạo thấy rơ ràng:
Người đệ tử Phật có chánh niệm, có tư duy, có quán chiếu nội tâm sẽ thấy rơ cái chân lư đó. Kinh Hoa Nghiêm đức Phật dạy:
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
Thiện là chi, ác cũng lại là chi ?
Gương ḷng sáng, xưa nay ta vốn có TRỰC CHỈ Nền giáo lư Phật nhằm đào tạo cho con người đức tánh tự tôn. Cái nhân bản của con người là tối tôn và hoàn toàn trong sáng. Con người hăy phát huy đức tánh vốn có ấy để mà sống một cách tự tin ở khả năng, ở nơi nhân bản cao đẹp vốn có của ḿnh. Người đệ tử Phật không tôn trọng ai khác, ngoài nhân bản thanh cao trong sáng, mà tác giả Chứng Đạo Ca gọi đó là "Bản nguyên tự tánh thiên chân Phật" của chính con người. V́ vậy, người đệ tử Phật, học Phật, tu theo đạo Phật không được sợ bất cứ một thế lực "linh thiêng", một sức mạnh vô h́nh hay một đấng thưởng phạt siêu nhiên nào đó, như một số người nhẹ dạ dễ tin thường sợ. Người theo đạo Phật chỉ sợ nhân quả. Tâm năo của con người là "căn cứ địa" phát xuất và biểu hiện qua "nghiệp nhân" THIỆN hay ÁC. Chữ "nghiệp" trong đạo Phật chỉ sự hành động của THÂN của KHẨU của Ư được biểu hiện cụ thể. Gieo nghiệp nhân THIỆN sẽ gặt hái trái ngon, tốt lành. Gieo nghiệp nhân BẤT THIỆN cũng sẽ được thu hoạch trái không ngon, cay đắng...Nhân thế nào, quả thế ấy, như bóng theo h́nh. Chung qui lại, do TÂM làm chủ hết. Tạo nghiệp nhân thiện hay ác, sẽ tự nhận lấy quả khổ hay vui. Hễ nhận lấy quả khổ th́ người ta cho là do mắc TỘI. Nếu nhận lấy quả vui th́ người ta cho là được PHƯỚC. TỘI hay PHƯỚC rơ ràng chỉ là kết quả của con người gieo nhân THIỆN hay ÁC ở thời gian trước đó mà thôi. Đúng chân lư mà nói th́ không ai là người có quyền ban cho và không ai là người phải chịu tội với ai cả. Lập trường b́nh đẳng của đạo Phật, biểu hiện cụ thể qua tính "b́nh đẳng về nhân bản của mọi con người". "Sáng soi thấy: TỘI, PHƯỚC không ai ban và ai phạt". *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
* Để trắc nghiệm, xin hỏi, "ông Robot"
người máy TRỰC CHỈ Tu đạo Phật, rất cần CHÁNH NIỆM mà không cần VÔ NIỆM. Có thể nói: Có chánh niệm là có tất cả đức tốt, hạnh lành. Có chánh niệm rất dễ thành công trên tám nẻo đường "bát chánh". Suốt cuộc đời hóa đạo chúng sanh, đức Phật không lúc nào rời chánh niệm. Chánh niệm nuôi lớn ngũ căn, chánh niệm phát triển ngũ lực, chánh niệm ǵn giữ thất thánh tài, chánh niệm trưởng dưỡng thất giác chi. Chánh niệm cũng là chất liệu bổ dưỡng để tưới tẩm, để đượm nhuần cho quá tŕnh phát triển của 18 pháp bất cộng của Như Lai Phật. Tu Phật mà mong cầu VÔ NIỆM là tu sai. Vô niệm th́ c̣n ai để biết, để tư duy chân lư và những ǵ phi chân lư ! Tu mà cầu được vô sanh cũng là lối tu sai lạc. Trên cơi đời, có cái ǵ không biến chuyển vận hành sinh diệt ? Đá gỗ c̣n không ra ngoài ṿng vận động vô thường "hằng chuyển" sát na sanh diệt, huống hồ là một hữu t́nh "tối linh ư vạn vật" ! Mong trở thành người VÔ NIỆM, cầu được chứng đắc VÔ SANH là lư tưởng cuồng vọng sai lầm và không có ngày hiện thực. Giả sử cái ngày hiện thực đến, con người VÔ NIỆM VÔ SANH "tệ" hơn loài khoáng vật, thực vật vô t́nh.....Con người hữu t́nh, vốn có tri giác lại trở thành người máy có "cơ quan" điều khiển vậy thôi sao ? Việc làm của người tu hành, tương tợ như việc làm của người huấn luyện khỉ. Người huấn luyện khỉ có tài là "thuần hóa" được khỉ, dạy khỉ làm tṛ, làm xiếc....theo ư muốn của ḿnh. Chứ huấn luyện khỉ làm cho "óc khỉ" trở thành chứng bệnh phân liệt, không c̣n hoạt động được ǵ, đó không phải là cách huấn luyện khỉ của người có tài, có trí. Tu hành cần có những giờ phút "tĩnh tâm" nhưng tĩnh tâm không được hiểu là những phút giây VÔ NIỆM. VÔ SANH là một ư niệm mà người tu Phật phải từ bỏ dứt khoát. Vô sanh đồng nghĩa với "đoạn diệt". Tự ḿnh làm cho ḿnh "rớt" vào hàng ngũ của ngoại đạo "đoạn kiến" là cách tu sai lạc, đáng thương ! *****Top
CÁI
THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Thân tứ đại là thân kết hợp bởi bốn chất: địa, thủy, hỏa, phong. Nó là cái thân bị lệ thuộc chi phối bởi luật vô thường như vạn vật hiện tượng khác. Nó c̣n là cái kết quả của khổ và bất an nhiều mặt. Kinh điển thường ví sự tạm bợ mong manh vô chủ của nó qua từ "huyễn thân". Ấy thế mà ở đời không có mấy ai thấy được tánh chất huyễn của nó. Trái lại người ta rất quí trọng nó hơn bất cứ thứ ǵ trên cơi đời. Điều đáng nói là v́ nó mà tạo nghiệp bất thiện, trong suốt cuộc đời để phục dịch vun bồi cho nó không có phút giây nhàm chán. Ư niệm đam mê luyến ái nặng nề về thân, kinh điển gọi đó là "chấp ngă", tức là quá tôn trọng cái thân. Rồi v́ thân mà tạo ác nghiệp, v́ thân mà chịu khổ...
"Phóng tứ đại" con người sẽ nhẹ nhàng, sẽ có an lạc trong cuộc sống, v́ con người vốn có tánh vắng lặng, thanh tịnh, trong sáng, có thể thọ dụng nó từ đời này sang đời khác vĩnh viễn không có cạn kiệt. Nhận thấy được tánh chất "ngă không" th́ "pháp không" không c̣n là vấn đề khó biết nữa. Chủ thể nhận thức đă là vô thường, vô ngă, khổ, bất tịnh và không, th́ đối tượng nhận thức cũng không vượt qua ngoài sự chi phối đó ! Cho nên người đạt đạo sẽ nhận thấy rơ:
Thấy được tánh "giai không" của vạn pháp, thấy được tánh vô thường của hành pháp, th́ cái NĂNG TRI và SỞ TRI đó trở thành bầu vũ trụ NHƯ LAI VIÊN GIÁC nhiệm mầu. Lúc bấy giờ:
*****Top
CÁI
THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO VỀ
*
Tôi không thích ba hoa vặt vănh TRỰC CHỈ Quyết định thuyết là lời nói có lập trường, có trách nhiệm, nhằm bảo vệ mục đích và lư tưởng của ḿnh. Lư tưởng của tác giả là chánh pháp liễu nghĩa thượng thừa của Phật tổ đă đinh ninh dặn ḍ khuyên dạy. Lập trường của tác giả là "nói thẳng, nói thật". Nói để diễn tả chân lư, truyền bá chân lư liễu nghĩa thượng thừa cho mọi người con Phật cùng học hỏi, tiếp thu để hành đạo và chứng đạo. Không nói "vuốt đuôi". Không nói để "chiếm cảm t́nh". Không nói kiểu "thỏa hiệp". Không nói kiểu "phương tiện"....để rồi người nghe không được tí nào lợi ích. Học chánh pháp, hành chánh pháp sống theo chánh pháp và truyền bá chánh pháp không thể sử dụng các kiểu nói tầm thường vừa kể. Để bảo đảm giá trị lời nói của một "chân tăng", một vị thày đúng danh nghĩa của đệ tử ḿnh, lời nói phải có lập trường, phải phục vụ cho một lư tưởng giải thoát, giác ngộ tuyệt vời cao đẹp. Một chân tăng, theo tác giả Chứng Đạo Ca, sẵn sàng chấp nhận cô đơn, chấp nhận sự công kích, sự thóa mạ...của mọi người. Hoặc sẵn sàng "không nói ǵ hết". Bao nhiêu ngôn ngữ nhường hết cho.... *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG
ĐẠO 29/11/98 Băng 9 Phiên âm:
Chú thích (1) Ma Ni Châu: Dịch là Ngọc Như Ư, Ngọc Như Ư là thứ ngọc trong sáng màu sắc lung linh biến ảo vô cùng đẹp đẽ, như thu hết cả sắc màu, cả sự sáng soi của vũ trụ vào trong đó. Kinh Phật thường dùng ngọc Ma Ni để chỉ cho tâm thanh tịnh trong sáng vốn có của con người. (2) Như Lai Tàng Tánh: Chỉ bản thể bất biến tùy duyên của vũ trụ vạn hữu. Vạn hữu ngàn sai muôn khác là diệu dụng duyên khởi từ bản thể Như Lai Tàng mà có.Tâm là tên gọi khác của Như Lai tàng. (3) Sáu Thần Dụng: Sáu diệu dụng bất tư ngh́ của nhăn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, và ư căn, khi con người hồi quang chân tánh. Con người lúc bấy giờ chỉ sử dụng "tuệ nhăn" mà quán sát vũ trụ vạn hữu, Nhục nhăn c̣n nguyên đó mà không c̣n công dụng. (4) Một Viên Quang: Như Lai Viên Giác Diệu Tâm, tâm tṛn sáng, giác ngộ chân lư trọn vẹn. Đến địa vị này, con người chỉ sử dụng "Phật nhăn" nh́n vũ trụ vạn hữu. Bốn thứ nhăn trước không c̣n tác dụng. TRỰC CHỈ Con người ai cũng có Chân Tâm. Tự thể chân tâm vốn trong sáng, thanh tịnh, vắng lặng, nhiệm mầu. Trong Chân Tâm không có một gợn phiền năo khổ đau, bất măn, bất b́nh. Cũng không có ư niệm ta, người, thương, ghét, thân, sơ...Kinh điển Phật thường ví Chân Tâm ấy như ngọc Ma Ni. Ai cũng sẵn có ngọc Ma Ni mà không biết ḿnh có ngọc Ma Ni quí báu ấy. Ngọc Ma Ni vô giá trong người mà không phát hiên để sử dụng cái công dụng NHƯ Ư của ngọc. có ngọc Như Ư, con người sẽ không c̣n ǵ để "thiếu". Phát hiện ngọc Như Ư, sử dụng ngọc Như Ư, nh́n vạn pháp bằng "Phật nhăn" cho nên:
V́, người phát hiện ngọc Như Ư, sử dụng ngọc Như Ư, là người chứng thật tướng của vạn pháp rồi.
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TỊnh ngŨ nhăn, đẮc ngũ lỰc Dịch nghĩa:
TRỰC CHỈ Giáo lư đạo Phật dạy rằng, con người có khả năng và quyền sử dụng "ngũ nhăn"." Khả năng" và "quyền" th́ mọi người đều có quyền thừa hưởng, sử dụng b́nh đẳng. Tuy nhiên, đây là thứ b́nh đẳng có điều kiện. Mọi người phải cùng ở "môi trường TU" th́ mới cùng được ở trong "môi trường CHỨNG". "Tịnh ngũ nhăn" là người đạt đến giai đoạn CHỨNG. Ngũ nhăn đoạt đến giai đoạn CHỨNG ĐẮC THANH TỊNH th́ chỉ có người tự chứng tự biết. Người khác môi trường nói và kể cho họ nghe hoặc họ bảo kể cho nghe, chẳng khác "Rủ nhau giành trăng ở đáy nước" hy vọng ǵ người khác môi trường bảo họ hiểu hoàn cảnh của riêng ḿnh. Phải cùng đứng trong vườn LAN HUỆ mới cùng thưởng thức được mùi hoa Lan Huệ. Phải cùng đứng nơi chợ cá ươn, mới thấm thía "hương vị" của chợ bán cá ươn. V́ vậy, TỊNH NGŨ NHĂN, ĐẮC NGŨ LỰC là việc có thực, nhưng diễn đạt cảnh giới thanh tịnh của "ngũ nhăn" của ḿnh cho người khác nghe biết là điều không dễ. Bảo người khác phải nghe và phải hiểu về cảnh giới CHỨNG ĐẮC của ḿnh lại càng khó, khó đến nỗi tác giả Chứng Đạo Ca ví với chuyện "Rủ nhau giành trăng đáy nước". Ngũ nhăn là năm thứ mắt, nói cách khác năm cách "tư duy" mà cùng một cách ngó nh́n. Đó là: nhục nhăn, thiên nhăn, pháp nhăn, tuệ nhăn và Phật nhăn. Ngũ nhăn thanh tịnh, con người tự có năm thứ sức mạnh, đủ sức tiến mạnh trên con đường Bồ đề Vô thượng. Đó là: CHÁNH TÍN, CHÁNH TINH TẤN, CHÁNH NIỆM, CHÁNH ĐỊNH VÀ TRÍ TUỆ BA LA MẬT. Điều đó nói với ai ? Dễ có mấy người biết ! Dễ có mấy người tin ! Đó là "...Duy chứng năi tri, nan khả trắc" Họ không tin, không có ǵ đáng trách, v́ họ khác môi trường. *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
ThưỜng đỘc hành thưỜng đỘc bỘ Dịch nghĩa:
TRỰC CHỈ Những phút giây TỰ NHỦ của tác giả CHỨNG ĐẠO CA, HUYỀN GIÁC, nói lên ư chí quyết liệt và xác định lập trường kiên định của ḿnh trên con đường hành Đạo. Thực vậy, tu hành mà không có mục tiêu cho ư chí vươn lên, không có lập trường để định hướng cho hành động, để rồi bạ đâu theo đó, "vui đâu chúc đó", "nghe đâu tin đó" thử hỏi một cuộc đời như thế con người đó sẽ ra sao ? Xác định lập trường là việc cần Ư chí quyết liệt cũng là việc cần Chấp nhận cô đơn cũng lại là việc cần. Nhưng người tu hành cũng không biến ḿnh trở thành một con người lập dị. Lập dị là một thói xấu trong muôn ngàn thói xấu. Cho nên lập trường của tác giả: có thể "cô đơn", có thể "vui một ḿnh", nhưng rồi:
"...Tôi những mong có Pháp lữ chung
ḷng Chưa hết, nếu ư chí đó, lập trường đó mà không được toại nguyện, v́ một lư do ǵ đó th́ tác giả lại xác định lập trường thêm một bước nữa: Tác giả có thể trở thành người lang thang nơi thâm sơn cùng cốc, hoặc lê bước chốn cỏ nội hoa đồng để được sống cho lư tưởng của ḿnh mà ḿnh đă vạch ra bằng bao nhiêu nhọc nhằn trên những năm tháng dài tu học. Tác giả bằng ḷng với cuộc sống đó:
"...Không như ư, tôi nguyện làm
người cổ lỗ. Cuối cùng, tác giả nâng lập trường lên một cấp cao hơn để "kiên định hóa" ư chí của ḿnh trở thành như một lời tuyên thệ: "...Dù xương trơ, thân đét, thịt
teo gầy *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
Cùng Thích tỬ, khẨu xưng bẦn
* Ngọc NHƯ Ư, dùng sao cho
hết Chú thích:
(2) Tứ trí: Thành sở tác trí, B́nh đẳng tánh trí, Diệu quán sát trí, Đại viên cảnh trí. (3) Tam Thân: Pháp thân, Báo thân, Hóa thân. (4) Lục Thông: Thiên nhăn thông - Thiên nhĩ thông - Tha tâm thông - Thần túc thông - Túc mạng thông - Lậu tận thông. (5) Bát Giải: Nói đủ: Bát Giải thoát. Tám đối tượng sở quán của người Tiểu thừa tham thiền. TRỰC CHỈ Người đạo sĩ trong đạo Phật hoặc cũng có hàng đạo sĩ không phải đạo Phật, thường tự xưng BẦN ĐẠO. Bần đạo là cái từ khiêm tốn nhún nhường, về kiến thức, đạo hạnh và phước đức...của một đạo sĩ. Nhưng theo tác giả Chứng Đạo Ca th́ người đạo sĩ của Phật giáo phải là người giàu chứ không được nghèo. Người đạo sĩ phải phát hiện Như Ư châu vô giá của ḿnh để lợi vật ứng cơ trên đường sự nghiệp. Người đạo sĩ "Thân bần", "Khẩu bần" có lợi hơn. Nhưng tâm th́ không thể "bần". "Thân bần", "Khẩu bần", hạn chế ngă mạn cống cao để tiến tới diệt trừ cái "bản ngă", vĩ đại tiềm phục trong A-lại-gia thức của con người muôn thuở. Đạo tâm không thể "bần", cần có đủ những chất lượng như: Tam thân, tứ trí, bát giải, lục thông....và nhị đế dung thông tâm địa ấn nữa. Được vậy, mới thuyết pháp độ sinh, lợi ḿnh, lợi người, mới là vị "thầy" đúng nghĩa của người "bần tăng" trong ḍng thích tử. Cho nên người Thích tử: ..."Khẩu xưng BẦN, ĐẠO bất bần" Cái Bần của người Thích tử nghèo biểu hiện mặc áo chấp "phước điền y". BẦN để làm ruộng phước cho chúng sanh, chớ không BẦN để than van, cầu cạnh, để "quyên tởi" quá nhiều cách ấy. Theo ư chí của tác giả Chứng Đạo Ca, Huyền Giác th́ BẦN ĐẠO của ḍng họ Thích, là con người thân BẦN, khẩu BẦN c̣n tâm ư phải là đại phú, phải phát hiện NHƯ Ư châu vốn có của ḿnh th́ sự nghiệp ḿnh mới rạng rỡ, mới xứng đáng ít nhất là "trung lưu chi sĩ" đó là cơ hội, là điều kiện..."Báo Phật ân đức của ḿnh". *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO 13/12/98 Băng 11 và 20/12/98 Băng 12 Phiên âm:
ThưỢng sĩ nhẤt quyẾt nhẤt thiẾt
liỄu Dịch nghĩa:
* Rồi tất cả, khỏi tu không cầu chứng
* Bậc Trung hạ, những căn cơ thấp kém TRỰC CHỈ Đứng bên "b́nh đẳng môn" th́ Phật tánh ai cũng có như ai. Đứng bên "sinh diệt môn": th́ vấn đề CHỦNG TÁNH, CĂN CƠ, góp phần rất quan trọng cho sự "nhất quyết" "nhất thiết liễu" của người tu hành. Phải cương quyết, phải nhất quyết, quyết định cho ḿnh một hướng đi, một mục đích đến mà không thể do dự, phân vân bán nghi bán tín, bởi v́ NGHI là một trong "Tư hoặc", trong "Thập sử", trong "Ngũ cái". Một khúc gỗ ở thượng nguồn, muốn trôi đến biển cả phải vượt qua năm điều cấm kỵ: không được trôi tắp hai bờ. Không để cho người vớt. Không theo nước xoáy mà trôi. Không vướng vào cồn đảo. Tự nó không ruỗng mục bên trong. Phải thẳng tắp mà trôi mới ra biển được. Chần chờ, do dự "không nhất quyết" th́ không đến đích giải thoát giác ngộ được. V́ c̣n vướng, c̣n "tắp" chưa chịu trôi ! Học theo kiểu tầm chương trích cú, học hiểu để ngâm phong vịnh nguyệt, uốn ba tấc lưỡi nói chuyện trên mây, trên "trời" để dọa hù những người cả tin nhẹ dạ. Với cuộc sống của tự ḿnh, việc làm, chuyện nói rặt mùi ám chướng u mê. Hở môi ra th́ khoe khoang học vị văn bằng. Chạm mặt với phiền năo đành nằm gác tay lên trán mà chịu đựng cho lương tâm hành hạ. Miệng oang oang nói về Cực lạc, Thiên đàng, ḷng u uẩn đắm ch́m trong A tỳ ngục. Đó là cái học của kẻ "hạ lưu". Dưới nhăn quan của tác giả Chứng Đạo Ca, vấn đề Chủng Tánh Căn Cơ, người Thích tử phải lưu tâm bồi dưỡng nó. *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
Tùng tha báng, nhẬm tha phi Dịch nghĩa:
* Lời phỉ báng, nghe như ru, như gió thoảng TRỰC CHỈ Thị phi, nhơn ngă, hỉ nộ, ái ố... suốt ngày ở đâu cũng có, nhà nhà đều có. Hay dở, khen chê, tốt xấu, xứ nào cũng có. Tất cả những cái đó, muốn cho nó trở thành không có, th́: Một, không nghe. Hai, nghe mà không để dạ, không tư duy về nó, th́ tự nó "tiêu dung".
Đó là việc có thật. Mọi người có thể tự thí nghiệm bằng cuộc sống của ḿnh, trong trường hợp ḿnh "lỡ" bị thị phi ập đến. Người tu hành rất cần "chánh niệm" để kịp thời đối phó với nghịch cảnh, nếu có. Trường hợp bị phỉ báng, thị phi, ta nhớ: Họ tự bỏng bởi ngọn lửa đốt trời trong tay họ. Miệng họ tự ô uế trước, v́ máu họ ngậm để phun người. Quán chiếu và tư duy như vậy, người tu sẽ nhẹ nhơm ngay, cơn bực tức sẽ hạ tức thời, nếu chánh niệm đến kịp lúc. Người chân tu nghe thị phi như gió thoảng, như ru hời, ngọt như cam lồ, mát như xuân phong, tỉ tê như nhạc thính pḥng, nỉ non như tiếng sáo Trương Lương....là chuyện có thật. Đó là ư thú của câu và của người:
Là chuyện có thật của người chân tu, biết tu, thường giữ được... "Chánh niệm" và chánh định trong đời sống tu hành. Tu mà không đem lại kết quả, không hóa giải được vô minh phiền năo, không có chút an lạc nào trong đời sống hiện tại là "Tu sai" cần phải sửa. Hy vọng kết quả ở đời sau, sau khi chết càng sai nghiêm trọng. *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
Quán ác ngôn thỊ công đỨc Dịch nghĩa:
* Câu hủy báng ta không quan tâm để dạ TRỰC CHỈ Người nói được cái xấu, dở của ta, người đó đáng là THIỆN HỮU TRI THỨC. Lời hủy báng, sỉ nhục nếu ta có đạo lực, chánh niệm vững vàng th́ sự kiện đó làm cho ta tăng thêm nghị lực trên bước đường hành đạo. Cho nên: "Quán ác ngôn, thị công đức" Đó là điều có thật đối với người chân tu thực học, nghe sỉ nhục, hủy báng mà giận mà thù th́ làm sao tỏ rơ được sức TỪ BI, NHẪN NHỤC và VÔ SANH của một Thích tử. Phải biểu lộ và chứng tỏ sức: TỪ, NHẪN, VÔ SANH của đạo Phật qua những "ác ngôn" những "sáng báng" mà không được khởi "oan thân". Cái thấy của người chứng đạo, quan niệm vấn đề là như thế.
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Thiền định, trí tuệ và sự thông minh là ba môn rất cần phải có của một tu sĩ Phật giáo. Chỉ có thông minh thôi, sẽ trở thành "Thế trí biện thông" tài t́nh cho lắm th́ cũng chỉ là người giỏi phục vụ cho ăn, mặc, ở, ngủ...suốt đời, mà khó có một ngày bằng ḷng trọn vẹn. Người ta phải "chịu đựng" và "chịu đựng".... THIỀN ĐỊNH đối với tu sĩ Thích tử không thể thiếu. Thiền định quan trọng với tu sĩ ví như chất muối quan trọng với những "đầu bếp" nêm nếm các món thực đơn đang nấu của ḿnh. Thức ăn không thể không có muối, nhưng muối tự nó không thành thức ăn ngon được. V́ vậy, tu thiền định phải là thứ định có tư duy, phát sanh trí tuệ. Nhận thức chân lư trong lúc định cũng như lúc xuất định, ấy là định đúng. Trái lại, định để đi vào vô tri vô giác như tượng gỗ đá là định không có tuệ, đó là định sai lầm, vô ích. Khác hơn định vô tri vô giác, người thiền định bằng cách tưởng tượng. Vận dụng trí tưởng tượng: Rằng ta đến cơi trời, ta vào động tiên, ta gặp đức Phật v..v. Đấy cũng là một thứ định không tuệ. Thứ định này sai lạc sẽ không đem lại kết quả mà c̣n nguy hiểm cho hệ thần kinh. Thứ định này định càng sâu th́ "lậm" càng nặng, có thể dẫn đến bịnh "tâm thần" loạn trí mà người bị "lậm" tưởng ḿnh đang sinh hoạt giao du với thần thánh, Phật trời... Định dẫn đến vô tưởng, vô tri giác sẽ rơi vào bệnh chấp KHÔNG, chối bỏ vạn vật hiện hữu. Định để mà tưởng tượng, xuất hồn đi đây đi đó, gặp thánh, gặp Phật....sẽ rơi vào bệnh chấp CÓ, cảnh giới do hoang tưởng mà tự thấy. Thiền định của đạo Phật, ĐỊNH là NHÂN, TUỆ là QUẢ. Tuệ phải là "tuệ" do chánh định, chánh niệm, chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh mệnh. Đối tượng tư duy quán chiếu là chân lư cuộc đời. Do vậy, với cái thấy của người chứng đạo: "Định tuệ viên minh bất trệ không...." *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Pháp âm của Phật thuyết thường được ví tiếng gầm của sư tử (sư tử hống) hoặc "hải triều" hoặc "chuyển pháp luân". Những từ đó dùng chỉ chân lư có một sức "uy hùng" như tiếng gầm của chúa sơn lâm, sức "áp đảo" như tiếng "gào" của sóng biển, sức "đè bẹp" như sức cán sỏi đá của "hủ lô". Chánh pháp phá tà thuyết dễ như ánh sáng chiếu bóng tối, phá mê tín dị đoan huyễn hoặc siêu h́nh dễ như "hủ lô" cán sỏi.... Chỉ có người trí, hàng chư thiên (tức hạng người có gieo trồng thiện nhân, có phước đức) nghe, sanh tâm hoan hỉ và hưởng được an lạc, ngay trong cuộc sống. *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
Du giang hẢi, thiỆp sơn xuyên Dịch nghĩa:
TRỰC CHỈ Là con người không ai dám xem nhẹ vấn đề sinh tử. Ai cũng lo âu, sợ hăi canh cánh suốt cuộc đời. Với tuệ giác vô thượng của đức Phật mà người đạo sĩ tu học, có quán chiếu tư duy, nhận thức được chân lư th́ sự sinh tử không phải là việc đáng sợ hăi, đáng để tâm ôm ấp, để rồi khổ đau v́ nó, mà cuối cùng cũng không tránh khỏi. Thế là "lỗ lă", "thiệt tḥi". T́m lư do ? Chỉ v́ "chấp", v́ bệnh chấp ngă, chấp pháp của con người. Đáng lư con người được hưởng sự tự tại, giải thoát ngay trong cuộc sống, thế mà mất hết ! Từ khi tác giả Chứng Đạo Ca tiếp nhận chỉ thú TÀO KHÊ:
Do vậy, vấn đề sinh tử chẳng dính vào được. Há chẳng phải:
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Xét cho kỹ mọi sinh hoạt ở đời, người ta sẽ thấy THIỀN là một môn luyện tập thuộc phạm trù nội tâm, một phương pháp điều TÂM hiệu quả. Do vậy, người ta ứng dụng hầu hết mọi lănh vực, mọi ngành nghề. Thiếu chất THIỀN khó mà phát triển tài năng kể cả hai mặt: sinh lư và tâm lư. Muốn đánh trúng chỗ nhược của đối phương, người vơ sĩ phải thiền. Nấu ăn thật ngon, người đầu bếp phải có thiền. Phát minh một khoa học, một vật lư, một dược liệu mới, nhà bác học phải có thiền...Đó là thế gian THIỀN. Ở lănh vực "tôn giáo", c̣n có ngoại đạo thiền, tiểu thừa thiền.
"Hành diệc thiền, tọa diệc thiền Đấy thuộc ĐẠI THỪA THIỀN. Tại sao Đại thừa thiền có một phong thái xem thường những đe dọa, chết chóc ? Chừng nào THIỀN GIẢ giải đáp được câu hỏi đó th́ mới hiểu được rằng ĐI, ĐỨNG, NGỒI, NẰM, đều không rời THIỀN của Đại thừa THIỀN. Than ôi !
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Ham sinh sợ tử là việc thường t́nh. Bởi v́ người đời quan niệm rằng "đời người có một lần". Một lần sinh ra. Một lần thi đỗ. Một lần kết hôn và đáng sợ nhất, một lần chết. Cuối cùng chết là hết ! Dưới nhăn quan của người chứng đạo: vạn pháp không có cái ǵ mất hẳn. Vạn pháp là hiện tượng vô thường nhưng chúng duyên sanh từ bản thể chân thường. V́ vậy, việc sinh tử không thể luận kiếp số, không có sự chấm dứt ḍng sinh tử. Ḍng sinh tử tử sinh cứ trôi măi không có bến bờ dừng trụ.. Nó "hằng" mà "chuyển". "Chuyển" trong cái "hằng". "...Tử rồi sinh, sinh tử lững lờ trôi" Không phải chỉ có con người mới tử sinh vô cùng vô tận về kiếp số. Qua cái thấy của người chứng đạo, Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni của ta cũng vậy, chư Phật trong mười phương ba đời cũng cùng thọ dụng một chân lư.
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Là con người, ai cũng như ai. Ngày ngày lo toan sinh kế, phục vụ bản thân gia đ́nh, thừa ra đóng góp phần cho xă hội. Ngoài những ngày giờ làm việc mệt nhọc, mỗi người dành cho ḿnh một cách "giải trí", một "thú vui". Thú vui xem phim, thú vui đọc sách, thú vui đánh cờ, thú vui câu cá, thú vui ca nhạc… Dưới mắt người chứng đạo, người đạo sĩ cũng có thú vui, một thú vui khác với tất cả thú vui của người thường. Thú vui của đạo sĩ, người thường nghe có thể không thấy có ǵ vui. V́ người ta không thưởng thức nổi cái hương vị giải thoát thâm trầm, sâu kín, mầu nhiệm của tâm hồn người đạo sĩ. Nói một cách khẳng định rằng, người đạo sĩ có thực tu, tu đúng chánh pháp, người đạo sĩ đó thưởng thức trọn vẹn cái thú vui "vô vi" mà người thường không có cơ hội được thưởng thức. Thú vui VÔ VI muốn thưởng thức nó, c̣n có cách là phải theo dấu chân của người trước đă đi qua.
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Muốn đi con đường Phật, phải chú ư những điều cần thiết ban đầu:
Có hiểu những điều cốt lơi đó, trong quá tŕnh nghiên cứu, học Phật, mới không sửng sốt, ngạc nhiên, kinh hăi, thậm chí phản đối và nguyền rủa, khi đọc: "Giác là hết, chẳng cần tu với chứng!" Đối với tư tưởng Đại thừa của người chủng tánh Đại thừa, đó là sự thật, không hề cường điệu, đại ngôn, càng không hề dụng ư phủ định, chê bai, bôi bác sự tu hành của người khác không cùng căn cơ, chủng tánh, tŕnh độ và pháp tu giống ḿnh. Người Đại thừa nhận thức rơ, pháp hữu vi "thiên sai vạn biệt", pháp tu th́ "vô lượng pháp môn", chạy theo nó ḿnh sẽ làm ǵ đây ? Làm cái nào cho mau hiệu quả ? Tu món ǵ để được "phước nhiều" ? Hành kiểu chi để mau thành Phật ?.v.v...Vô số vấn đề, bao nhiêu câu hỏi được đặt ra, chắc chắn chẳng ai biết chắc phải làm ǵ để được thành công sớm nhất và to lớn đến cỡ nào ! Riêng về pháp môn tu THIỀN của THIỀN TÔNG cũng c̣n không biết cơ man nào rắc rối. Nếu không có duyên tu học VÔ VI THẬT TƯỚNG MÔN th́ đa số, người ta chỉ dạy nhau và tu với nhau những pháp môn THIỀN LÁ SẢ mà thôi ! Với người Đại thừa "Nhảy một nhảy, đến ngay vùng đất Phật". Đó là chuyện có thật. Nhưng có điều chua chát là lời thật không phải ai cũng bằng ḷng. Tuy nhiên, không v́ vậy mà người chứng đạo không v́ lẽ thật, nói ra lời thật để cho ai đó "đạt giả đồng du..." chứng nhập quả bồ đề chân thật. *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Nh́n bao quát nắm lấy trọng tâm là cách nh́n của người khôn ngoan trong cuộc sống. Nhà quân sự, cất cánh chiếc máy bay thám thính, bay lượn một vùng trời hàng trăm "cây số" để nh́n bao quát và t́m nắm lấy một mục tiêu, một "trọng tâm" của đối phương trong một vài điểm. Tiều phu vào rừng. Ngư phủ ra khơi. Người nội trợ đi chợ. Cô bán hàng rong...đều vận dụng cách "nh́n bao quát, nắm lấy trọng tâm" trong nghề nghiệp của ḿnh. Đến như những bậc tiền bối ḍng dơi tiên rồng cũng dạy cho con cháu cách "nh́n bao quát, nắm lấy trọng tâm" để chọn cho ḿnh một ư trung nhân trong lứa tuổi "xuân xanh xấp xỉ" búi tóc cài trâm rằng:
Người đạo sĩ cũng có cái nh́n 'bao quát' trong đường học đạo và hành đạo. Người ta thường gặp nó trong một cái từ đẹp đẽ mới nghe qua tưởng như hữu lư:
Thực vậy, đa hạnh không có ǵ phải chê trách và chối bỏ. Nhưng "đa hạnh" chỉ là cách "nh́n bao quát" mà người thông minh, cần phải biết "trọng tâm" để nắm lấy. Đa hạnh chỉ là lá, ngọn cành..Lá, cành, ngọn, đọt có thể tiêu ma tàn rụi dễ dàng nếu gốc sùng, hà, mục ruỗng. Trọng tâm của đạo sĩ, qua cái thấy của người chứng đạo là TÂM. TÂM ở đây được ví "tịnh lưu ly". Tịnh lưu ly thu hết ánh trăng vàng. "Chân tâm thường trú", "Như Lai Viên Giác Diệu Tâm" mà phát hiện, mà tỉnh thức, mà tỏ ngộ, mà thể nhập th́ diệu dụng sẽ vô cùng vô cực. Dùng cho việc lợi ḿnh, dùng cho việc lợi chúng sanh từ đời này cho đến vĩnh viễn vô lượng đời sau công đức không bao giờ cạn kiệt. *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Cái thấy của người chứng đạo đối với việc "tu hành" nhẹ nhàng, cởi mở, tự tại mà hiệu quả rất cao. Người chứng đạo họ có giải thoát thực sự, họ có giác ngộ chân lư thật sự, v́ vậy không có ǵ ràng buộc được thân tâm con người chứng đạo. Dưới mắt của người chứng đạo, vạn pháp đồng nhất thể. Tùy duyên biến hiện mà dáng vẻ h́nh hài có sai khác đó thôi. Tất cả đều cùng chung một tự tánh thanh tịnh bản nhiên của tự nó. Từ nhận thức chân lư đó, cho nên vấn đề gọi là TU HÀNH chẳng có ǵ cực khổ khó khăn.
Lạy ngũ bách danh, tam thiên Phật. Không cần Tụng kinh, tay chuông, tay mơ, ngày sáu thời. Không cần Tay lần chuỗi, miệng niệm danh hiệu Phật suốt ngày. Không cần Vậy người đạo sĩ, cần ǵ? _ Cần vững CHÁNH NIỆM. Có chánh niệm là có tất cả. Có chánh niệm người đạo sĩ sẽ không rời Phật tánh. Luôn luôn tỉnh thức sống bằng Phật tánh, đương nhiên có "giới châu", có “định châu”, có "tuệ châu". Giới, định, tuệ mà in sâu tâm địa th́ c̣n cái ǵ ràng buộc được, lư do nào làm cho hành giả "bận ḷng"! Như vậy, người đạo sĩ:
Đó là việc có thật. Có thật, tuy nhiên: "Duy chứng năi tri, nan khả trắc..." *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Người học Phật, phải học, hiểu những vấn đề then chốt của nền giáo lư Phật, trước khi vào nhà Phật học đồ sộ. Đó là vấn đề: - Sự - Lư - Phương tiện - Cứu cánh - Bất Liễu nghĩa - Liễu nghĩa - Tục đế - Chơn đế Hiểu được ư nghĩa và công dụng của những cặp phạm trù đó, người đạo sĩ thấy biết rộng sâu vào vấn đề:
- Lư pháp giới
- Lư sự pháp giới
- Lư vô ngại
- Lư sự vô ngại Hiểu rỏ tánh chất "vô ngại" qua bốn cách nh́n "pháp giới", người đạo sĩ chợt nhận ra chân lư "Pháp giới nhất chân". Sự là "sự" của "lư". Lư là "lư" của "sự". SỰ LƯ VIÊN DUNG. Bấy giờ nh́n thấy gậy đuổi cọp, bát thu rồng, b́nh bát, tích trượng như nh́n thấy Phật, Pháp và Tăng. Thấy được chân lư: "Một là tất cả". "Tất cả là một". Thế cho nên với người chứng đạo những chứng tích "hữu vi", "sự tướng" đó không ngoài "bản thể nhất chân" th́ sao được gọi là HƯ SỰ TR̀ ? Tuy nhiên, với người chưa tỏ ngộ chân lư, ôm giữ b́nh bát tích trượng, ba y, chánh gốc của Phật tổ Như Lai, để mà "lễ bái" mà "cầu nguyện" mà "van xin" mà "hy vọng", mà trông nhờ "sự phù hộ" sự "cứu rỗi" của Phật tổ th́ rơ là HƯ SỰ TR̀. V́ sự chỉ là sự "hữu vi pháp" th́ của ai cũng đều như huyễn, như hóa, như sương mai, như điện nhoáng mà thôi. Bo bo ôm giữ "sự tướng" là dẫm chân một chỗ. Mà phải hiểu:
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Giáo lư liễu nghĩa thượng thừa trong đạo Phật, vấn đề CHÂN, VỌNG không là vấn đề đáng được bàn căi đúng sai chân vọng nữa. "Tánh chân thực của pháp hữu vi là KHÔNG V́ duyên sanh Ví như huyễn Bản chất của pháp vô vi, không sanh không diệt V́ không có thật Ví như hoa đốm trong hư không" Chỉ cái vọng, cốt hiển bày CHÂN. Không vọng tự nó CHÂN. Không có CHÂN nào ngoài VỌNG. Vọng và chân đều không tự tướng. Không tự tướng đồng nghĩa với "không có ǵ". Gọi là CÓ chỉ là sự hội tụ duyên sinh c̣n ḥa hợp. Gọi là KHÔNG chỉ là sự phân tán của duyên sinh tan ră. Người học Phật khi nói CÓ phải ư thức, ḿnh đang nói có cái ǵ. Lúc nói KHÔNG cũng phải ư thức, ḿnh đang nói KHÔNG cái ǵ ! SẮC KHÔNG, KHÔNG SẮC là vấn đề của người học đạo, hành đạo và chứng đạo mới thấy rơ:
"...Đạt giả đồng du Niết bàn lộ..." Đó không phải là vấn đề nên "thảo luận" trong những buổi "tửu hậu trà dư". Càng không được nói để chứng minh rằng đó là sai hay đúng. Nếu cả đời mà ta chưa gặp "đạt giả" để "đồng du" th́ chỉ c̣n một cách "độc hành độc bộ" mà thôi ! Rồi thỉnh thoảng chờ nghe tiếng vọng trong không gian thủ thỉ:
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Trong giáo lư Phật, đề cập TÂM là đi vào lănh vực "chuyên", vào chiều sâu thăm thẳm của tư duy và quán chiếu. Nói cách khác, người học Phật muốn nhận thức về TÂM, thưởng thức được hương vị giải thoát của TÂM, công dụng tuyệt vời thánh thiện của TÂM, người đạo sĩ phải thực hiện THIỀN, phải vận dụng CHÁNH QUÁN. Bởi v́ TÂM ở trong đạo Phật nói có nhiều tên gọi. Mỗi tên gọi, một công dụng, một giá trị lợi hay bất lợi, "bạn" hay "thù", chỉ người thực học, thực tu, mới hiểu hết, hiểu kỹ từng công dụng của các thứ TÂM:
Tâm có nhiều tên gọi như vậy, cho nên nghiên cứu đạo Phật sơ sài, hời hợt mà bàn luận về TÂM th́ khó mà quán triệt vấn đề. TÂM CẢNH MINH, chỉ cho cái tâm được loại bỏ "vọng tâm", loại bỏ "duyên lự tâm", những thứ tâm nghĩ ngơị lăng xăng , tạp nhạp, thứ tâm gây ra một nguyên nhân và hậu quả khổ đau cho con người. TÂM CẢNH MINH là NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM là THƯỜNG TRÚ CHÂN TÂM của con người vốn có. Theo giáo lư đạo Phật, đó là "bản thể" của vũ trụ vạn hữu. Hiện tượng vạn hữu là pháp "duyên sinh" từ tâm thể đó mà ra:
"Nhược nhơn dục liễu tri "Duy tâm tạo" là "tâm thể" bao hàm thu tóm hết vạn tượng sum la, không c̣n vật nào "ở trong", cái ǵ "ở ngoài" nữa. Cũng như sóng ṃi, bọt bong bóng, không có cái gọi là "trong", là "ngoài", v́ là cùng một duyên sanh trên mặt b́ển bao la vô tận của nước đại dương. *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Chữ CHẤP ở trong đạo Phật có ư nghĩa rất quan trọng. Chấp đồng nghĩa như chữ "cho là". Sự vật tôi "cho là" CÓ hoặc tôi "cho" sự vật "là" KHÔNG. Cho là CÓ: CHẤP CÓ. Cho là KHÔNG: CHẤP KHÔNG. Cho là KHÔNG NHÂN QUẢ: CHẤP KHÔNG NHÂN, KHÔNG QUẢ. CHẤP thế gian là có, chấp thế gian là không, đồng nghĩa với "chấp thường", "chấp đoạn", không hợp với chánh pháp. Cho vạn pháp thực có, con người sẽ bị sa lầy, v́ đam mê vạn pháp. V́ vạn pháp mà tạo nghiệp mà chiêu báo. Cho vạn pháp là không, con người mất hết lư tưởng để sống. Và nếu sống cũng dễ mất hết lương tâm, lương tri, không biết vấn đề thiện ác là ǵ. Cho rằng không có nhân quả, cũng là hạng người rất đáng sợ, v́ người ta không quan tâm, không lượng định việc làm và hậu quả của việc làm, nếu việc làm đó là 'bất thiện nghiệp". Không CHẤP CÓ, v́ chán ư niệm có, v́ ư niệm CHẤP CÓ gây ra nhiều nguyên nhân đau khổ. Bấy giờ xoay lại nảy sanh ra ư niệm CHẤP KHÔNG. CHẤP KHÔNG vẫn là một ư niệm chấp sai lầm chân lư. Dính líu vào ư niệm chấp có đă không đem lại an lạc hạnh phúc được. Dính líu vào ư niệm chấp không, làm sao có được sự an vui. Vả lại ở trên cơi đời làm sao phủ định vạn pháp, làm sao trốn chạy vạn pháp, khiến cho vạn pháp trở thành KHÔNG, cho được ? Mà người học đạo phải hướng về "Thật tướng", phải chứng cho được "Thật tướng" th́ mới khỏi vướng hai bên. *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Hễ có ư niệm LẤY, BỎ th́ cũng có các ư niệm tốt, xấu, thương, ghét, thân, sơ, sang, hèn, phải, quấy, ta, người....Đó là những ư niệm phát xuất từ vô minh vọng động, khiến cho CHÂN TÂM thanh tịnh vốn có của con người bị ẨN mất. Ví như sóng ṃi, bọt bèo của nước biển không thể hiện được tánh phẳng lặng như tờ của biển. Theo giáo lư Bát Nhă Ba La Mật, pháp sai lầm trái chân lư trừ bỏ đă đành mà pháp gọi là chánh là đúng cũng phải bỏ nốt. Một bàn tay cầm nắm phải bùn đất, cần buông bỏ đă đành, bàn tay cầm nắm kim cương, vàng ṛng th́ bàn tay đó cũng bị "nắm cứng" v́ mớ vàng ṛng và kim cương ấy. Bàn tay sẽ không dùng được vào một việc ǵ khác, trong khi công dụng của bàn tay có thể phát huy diệu dụng, lợi ích vô cùng. Sai lầm của THỦ, XẢ nó không đóng khung trong "thủ xả" mà nó liên can lôi cuốn theo nhiều thứ khác. V́ vậy, tác giả nói: "Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy..." *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ TÂM tức là đệ bát thức, cũng gọi "A lại da", là "Dị thục" hay "Nhất thiết chủng thức". Nó là tổng thể, hàm chứa hết mọi thứ: cả SẮC, cả TÂM. Tên là ĐỆ BÁT THỨC TÂM VƯƠNG, nhưng nó c̣n có cái tên "Tàng". V́ vậy, nó không phải chỉ có phần "tâm" mà nó hàm tàng cả "sắc". Ư: ở đây chỉ cái công dụng chấp ngă tức là "đệ thất thức". Ư làm "tổn pháp tài", "diệt công đức" thuộc hàng đầu. THỨC: ở đây chỉ cho "tiền lục thức", công dụng tiếp thu, xuất nhập "lục cảnh": sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Người đạo sĩ, chừng nào chưa chuyển thức thành trí, chưa làm chủ được bát thức tâm vương, chưa tăng tiến bồi dưỡng sức TRI KIẾN VÔ SINH th́ hăy c̣n bị sự phân biệt, sự chấp nê, sự thị phi nhơn ngă tác động hoành hành. Do vậy, mà "tổn pháp tài" và "công đức" suy ṃn dần mất hết. Và cũng do vậy, Thiền gia rất xem trọng cái TÂM. Thiền gia chủ trương đối với TÂM phải trực diện với nó, phải nh́n thẳng vào mặt nó, và nhất cử nhất động của nó Thiền gia phải thấy hết, biết hết. Biết rơ từng nguyên nhân của ư nghĩ, biểu hiện lời nói và hành động: Đă khởi, đang khởi và sẽ khởi. Biết rơ cả hậu quả của nguyên nhân, dù c̣n trong ư niệm. Con người của ḿnh, ḿnh phải biết ḿnh là ai. TÂM ḿnh, ḿnh phải "trực diện" với nó mọi nơi mọi lúc. Thiền gia gọi đó là cách tu:
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Tôn chỉ của đạo Phật, có TUỆ là có tất cả. Quả VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ là đỉnh cao tột của TUỆ. Quả VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN là diệu dụng của TUỆ. Trong tam vô lậu học, GIỚI, ĐỊNH là hạt, là cây, là cành, là lá mà TUỆ là hoa, là trái. Tu GIỚI, tu ĐỊNH cốt để có được TUỆ. Hiểu được chân lư đó, người đệ tử Phật chân chính có học Phật, tu hành không sợ lầm lạc. Tu GIỚI, ĐỊNH phát sanh TUỆ GIÁC là tu đúng chánh pháp. Gọi là GIỮ GIỚI, gọi là TỌA THIỀN tốn công, khổ luyện, dù phải trải qua mấy mươi năm, mà không sanh TRÍ TUỆ, không có khả năng nhận thức chân lư, tư duy về chân lư, đó là tu sai lầm. Nhọc mệt thân tâm, không đem lợi ích luống uổng một đời. Nói một cách khẳng định rằng, tu hành mà không phát sanh TUỆ GIÁC th́ không nên theo pháp đó nữa, v́ đă sai lạc pháp tu, trồng phải một thứ cây không có hoa trái th́ nên chặt bỏ nó đi. "Đại trượng phu" là người phải nắm cho được cái chuôi "kiếm tuệ". Phải có khả năng sử dụng "gươm" BÁT NHĂ KIM CANG để "tồi tà phụ chánh", để đối phó ngoại đạo, thiên ma, phải làm cho chúng vỡ mật, bay hồn, khiến cho chúng "chích luân bất phản", tấn công chúng "phiến giáp bất hoàn". Để "sử tri Phật giáo ta bà chi hữu chủ" ! Dưới mắt của người chứng đạo, người đệ tử Phật phải bồi dưỡng trí tuệ, Đó là ư nghĩa: DUY TUỆ THỊ NGHIỆP *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Tu GIỚI, ĐỊNH, TUỆ để hoàn thành tự giác "Chấn pháp lôi", "Kích pháp cổ", "Bố từ vân", "Sái cam lộ" là công hạnh hoằng pháp để lợi lạc chúng sanh. Đó là "tha giác". Đủ hai hạnh "tự giác", "tha giác" gọi đó là "Giác hạnh viên măn" là thành bậc Vô Thượng Chánh Giác, thành Phật. Đó là điểm cao tột, cần đạt đến của một tu sĩ Phật giáo. Người có trí tuệ, có đạo đức, có được sự giác ngộ giải thoát hơn người thường. Kinh điển ví hạng người đó là "Long tượng" sức mạnh hơn "Hương tượng"... Là một tu sĩ, trưởng tử Phật, phải học chánh pháp, hành chánh pháp, sống theo chánh pháp, và truyền bá chánh pháp. Được vậy, xứng danh một Thích tử, "tác Như Lai sứ", "hành Như Lai sự", đóng vai tṛ Long tượng, khai rừng, xẻ lối cho chúng sanh, vượt qua rừng vô minh tối tăm nguy hiểm. *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Chủng tánh Đại thừa, nh́n vạn pháp qua tư tưởng liễu nghĩa thượng thừa, hành giả sử dụng "tuệ nhăn", họ thấy rất rơ chân lư: "một" là "tất cả". "Tất cả" là "một". Người chưa có cơ hội nghiên cứu, tu học Đại thừa nghe qua, họ không tiếp thu dễ dàng được, c̣n nói chi bằng ḷng chấp nhận. Muốn t́m hiểu vấn đề "một" là "tất cả" nầy, trước hết nghiên cứu về chân lư: "vạn pháp duyên sinh" của Phật giáo. "Duyên sinh" nghĩa là vạn pháp không pháp nào đơn độc tự sinh, mà một sự vật nào đó, đều phải kết hợp nhiều yếu tố và điều kiện....Bông hồng không thể tự dưng có ra bông hồng. Trái táo không tự dưng có ra trái táo....Trong trái táo có đất, có nước, có phân xanh, có NPK, có UG, có "bồ tạt"...có cả mây đen, ánh nắng, cả mặt trời và c̣n có h́nh bóng con người nữa chứ ! Giáo lư MỘT là TẤT CẢ, phải thấy bằng TUỆ NHĂN với một THIỀN TÂM. Không có THIỀN TÂM, không có TUỆ NHĂN sẽ không thấy được sự nhiệm mầu của vạn pháp, của đất trời mà ta đang sinh hoạt. Vấn đề Pháp thân chư Phật vào trong tâm tánh ta. Tâm tánh ta và Pháp thân cũng vậy. Trong ta có Phật. Trong Phật có ta. Khi ta mê th́ ta là ta, ta không là Phật. Lúc ta không c̣n mê, ta đă GIÁC th́ ta là Phật, ta không c̣n là chúng sanh mê muôi, tội lỗi nữa. Bởi v́ Phật xưa kia, khi c̣n mê mờ chân lư th́ vẫn là một con người, một chúng sanh. Khi chúng sanh GIÁC, tỉnh thức th́ không c̣n là chúng sanh nữa mà là Phật. Thế cho nên:
Tánh Phật và tánh chúng sanh không có ranh giới riêng khác, mà chỉ khác ở điểm MÊ và GIÁC. *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ ĐỊA có nghĩa là cơi, là cảnh giới. Cảnh giới có loại cảnh giới vật chất, cụ thể như những hành tinh thiên thể mà các nhà thiên văn học đang khám phá, đang t́m hiểu về sự cấu tạo h́nh thành. Cảnh giới nào có thể có sự sống, cảnh giới nào không...Theo giáo lư Phật dạy, cảnh giới vật chất cụ thể này nhiều lắm, phải dùng thứ ngôn từ vượt ngoài tính đếm để nói: "Hằng hà sa số". Hằng hà sa số đă nhiều vô lượng vô biên A tăng kỳ thế giới......Cái từ nghe như sâu xa hun hút và ngộp thở ấy, nó nhiều biết chừng nào ! Vậy mà, qua cái thấy của người chứng đạo th́ tất cả cơi hay cảnh giới đó, gộp lại trong một từ PHÁP GIỚI. Rồi qua sự quán chiếu và tư duy, người chứng đạo đánh giá: NHẤT CHÂN.
Nghĩa là pháp giới cùng chung một bản thể là CHÂN là NHƯ. Không cảnh giới nào ngoài cảnh giới nào, không cảnh giới nào tốt hơn, quư hơn, sướng hơn cảnh giới nào. V́ tất cả đều CHÂN NHƯ, cùng một chất lượng CHÂN NHƯ giống nhau. Do vậy, dưới con mắt tuệ của người chứng đạo:
Ngoài "cảnh giới" hay "cơi" cụ thể vật chất ấy, c̣n một thứ "cảnh giới" một thứ cơi ḷng, cái thứ "cơi ở ḷng" nầy nó tác động vào trực tiếp vào cuộc sống của con người. Đây mới là cảnh giới đáng kinh sợ, đáng quan tâm để tu học. Phật TÂM của ta vốn trong sáng, thanh tịnh vốn có, tự thể của Tâm là thể thanh tịnh, trong sáng. Nó là NHẤT CHÂN. Nó không có sầu muộn, ưu tư, khổ vui...ǵ ǵ cả. Thế, nó cũng là một thứ:
Vậy mà thực tế, có lúc ta vui, lúc buồn, lúc tham, lúc si, lúc không c̣n muốn sống, thậm chí có người quyên sinh thật. Thế vui khổ do con người. Ta bà hay Cực lạc do con người. Cảnh giới thanh tịnh an lành đáng sống hay ô trọc khổ đau không muốn nh́n thấy cơi đời...cũng do con người. TÂM con người th́ TÂM ai cũng như TÂM ai, đều là CHÂN NHƯ và cùng một bản thể NHẤT CHÂN PHÁP GIỚI ở ḷng ta đó chứ ! Thế là dưới mắt của THIỀN GIA, của người chứng đạo. Pháp giới ngoại cảnh hay pháp giới nội tâm đều là:
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Người thực học, thực tu và chứng đạo thực. Họ có sự an lành giải thoát thực mà người thường khó biết. Kinh điển Phật gọi đó là: "Bất tư ngh́ giải thoát pháp môn". Họ giải thoát và an lành ngay trong lúc nói, nín, động, tĩnh, ngay khi đi, đứng, ngồi, nằm. Kinh điển Phật gọi qua cái từ: "Bất ly ư đương xứ". Trạng thái an lành giải thoát đó, là sự biểu hiện của một con người, một THIỀN GIẢ, một tâm hồn đạt đến tŕnh độ NHƯ NHƯ BẤT ĐỘNG, trước ngoại cảnh khen, chê, lợi, suy, hủy, dự.... Yếu tố khiến cho hành giả đạt đến cảnh giới như như bất động ở nội tâm, là phải tư duy, quán chiếu, thấy cho được TÂM THỂ. Tâm thể vốn rỗng rang, thanh tịnh, trong sáng như hư không. Hư không không phải là sự sự vật vật, nhưng hư không không chống cự sự phát huy sinh trưởng của sự vật. Sự vật dù sinh trưởng phát huy trong hư không nhưng hư không vĩnh viễn là hư không thanh tịnh. Dữ kiện và yếu tố tư duy quán chiếu đó, khiến cho hành giả có được sự tự tại an nhiên:
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ ĐƯỢC, MẤT, LẤY, BỎ, THÀNH, BẠI, THÂN, SƠ...là biểu hiện của tâm chấp ngă và chấp pháp, của phiền năo, của vô minh. Chúng là nguyên nhân sanh ra vô vàn đau khổ. Một người hành đạo giải thoát, luôn luôn cảnh giác hóa giải nó từ ư niệm ban đầu. Ở đây tác giả Chứng Đạo Ca Huyền Giác nhắc nhở một điều đơn giản: Không nên ĐƯỢC một thứ ĐƯỢC nào. Mà nên "Được cái KHÔNG ĐƯỢC". Bởi v́ cái chân lư "vạn pháp duyên sanh" chi phối hết cả rồi, có pháp nào thật đâu để mà LẤY mà BỎ. V́ vậy, có muốn LẤY, cũng chẳng có ǵ để lấy. Có muốn BỎ, cũng chẳng có ǵ để bỏ. Chỉ c̣n một con đường tỉnh thức của những kẻ chân tu:
Mong được Bồ đề, Niết bàn c̣n không nên, huống chi mong được cái ǵ khác. V́ Bồ đề, Niết bàn không phải đối tượng sở đắc. V́ rằng Bồ đề, Niết bàn là "không hư", nhưng cũng không là "thực pháp". Vào vườn hoa, chỉ chăm chú nh́n một đóa hoa, người đó sẽ không thưởng thức được cái đẹp, thơm của cả vườn bông hoa thơm đẹp. Chỉ có người không được ǵ hết, mới là người được tất cả, tất cả những ǵ trong vũ trụ bao la vô tận. *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Thiền sư im lặng nhiều, nói ít. Im lặng cả lúc đi, đứng, ngồi, nằm. Sự thật, thấy vậy mà không phải vậy. Thiền sư là người nói rất nhiều, nói nhiều hơn người thường có thể hàng vạn lần hơn. Bởi v́ lục căn của một thiền sư rất bén nhạy trong việc thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc...V́ vậy, Tâm ư của thiền sư là một cơ quan tiếp thu, phân tích, nhận thức và đánh giá vô số vấn đề bởi lục căn đưa vào. Thuật ngữ gọi đó là "tư duy", "quán chiếu". Cho nên im lặng, thật sự nói rất nhiều. Nói bằng DIỆU ÂM, QUÁN THẾ ÂM, nói bằng PHẠM ÂM, và HẢI TRIỀU ÂM. Ngược lại, có lúc người ta thấy thiền sư nói nhiều, nói thoải mái, kể cả cười "kha khả" vang cả vườn rừng. Sự thật, trong thời điểm đó, Thiền sư chả nói ǵ. Chỉ v́ muốn cho đẹp ḷng mọi người mà nói, mà cười. Nói cười mà ḷng thường chua xót, v́ đă nói, đă chỉ bày cho chúng sanh những thứ không đáng giá, không đúng ư mà ḿnh muốn tặng cho mọi người về chánh pháp của Như Lai. Đó là nói rất nhiều, mà như không có nói ǵ. Thành tựu, thâm nhập cái "lực" của Bát Nhă Ba La Mật, con người có "sức" trí tuệ vượt hơn và khác hẳn hơn với lối hiểu biết qua những khuôn sáo, nghi lễ, cố chấp tầm thường. Do vậy, người thường khó nhận thức đúng việc nói việc làm của người thể nhập "Ma ha Bát nhă". Cái đúng của Thiền sư, người thường nh́n hành động của Thiền sư, có việc thấy đúng, có việc thấy như sai. Có khi thấy thuận, có lúc thấy trái...tại v́ người thường chưa rời chấp. Chấp về "tập tục", chấp về "lễ nghi", chấp về "danh ngôn"...Đúng với ư "chấp" của họ cho THỊ là THUẬN. Trái với ư "chấp" của họ th́ họ bảo PHI là NGHỊCH. Cho nên, Thiền sư phải là người:
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ
Đọc hai câu đối trên gợi trong trí độc giả về truyền thừa chánh pháp của đức Phật qua hai giai đoạn lịch sử ở hai quốc gia: Ấn Độ và Trung Hoa.
Đó là lời phó chúc của Phật truyền bảo cho ông Ca Diếp về "cách nh́n vạn pháp" trong suốt quá tŕnh tu tập. Thế là ông Ca Diếp lănh sứ mệnh "tục diệm truyền đăng" để rồi người đời sau gọi ông là SƠ TỔ truyền thừa chánh pháp ở Ấn Độ. Người ta gọi ông Ca Diếp là "sơ tổ" phái "thiền tông" là nói sai rồi, đừng có nghe mà phải học:
Hai mươi tám đời tiếp tục hoằng truyền chánh pháp ở Ấn Độ thời đó. Danh sách dưới đây:
Kinh sách Phật thường gộp chung trong một từ Hán, nói theo toán học là "Tây thiên tứ thất". Sau đây, ta t́m hiểu về "Đông độ nhị tam" qua thi ca:
Khi Phật pháp sang Đông độ, tức Trung Hoa, th́ Bồ Đề Đạt Ma là người đem chánh pháp của đức Phật đầu tiên truyền bá ở Trung Hoa. Người sau gọi Bồ Đề Đạt Ma là "Sơ Tổ". Tiếp theo là "Lục đại truyền y", nghĩa là sáu đời tiếp theo vẫn c̣n giữ cái truyền thống truyền trao y bát để làm "chứng tín" cho vai tṛ và nhiệm vụ kế thừa cho đến đời sau là Lục Tổ Huệ Năng. Dưới đây là danh sách "Lục đại truyền y":
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Bước vào đạo Phật, học đạo, hành đạo, người ta thường quan tâm về CÓ, KHÔNG, TỘI, PHƯỚC, THIỆN, ÁC và cao hơn một bậc là vấn đề CHÂN VỌNG. Người ta hướng về những ǵ gọi là CHÂN và mong mỏi t́m cầu CHÂN, tha thiết muốn CHỨNG được cái gọi là CHÂN ấy. Đă thích CHÂN th́ người ta cũng rất sợ VỌNG. Họ bảo rằng: "Tu hành phải tĩnh tâm, quán chiếu tâm thường xuyên để mà DIỆT VỌNG. Chừng nào DIỆT HẾT VỌNG th́ được CHÂN và sẽ chứng nhập CẢNH GIỚI CHÂN NHƯ...có được Niết bàn !" Lư lẽ đó, người học Phật chưa sâu, khó t́m thấy chỗ "phi chân lư". Cho nên có thể có rất nhiều người thích nghe thứ giáo lư "thùng rỗng kêu to" như vậy. Qua cái thấy của người chứng đạo: CHÂN không thực, lấy CHÂN đâu để lập ? CHÂN không tự thể, lấy ǵ để LẬP cái gọi là CHÂN ? Đối với VỌNG th́: "VỌNG không CHÂN, t́m VỌNG ở nơi nao ? VỌNG không CHÂN nghĩa là tự nó không có thực thể th́ lấy ǵ để DIỆT ? Thấy được vấn đề VỌNG CHÂN không tự thể, hành giả sẽ "rảnh" hết những ư niệm TRỪ và DIỆT. Ư niệm CẦU và CHỨNG hành giả trở thành "nhàn đạo nhân". Vấn đề CÓ, KHÔNG cũng vậy. CÓ là CÓ cái ǵ ? KHÔNG là KHÔNG cái ǵ ? Người chứng đạo không hề phủ nhận sự hiện diện của vạn pháp mà cũng không khẳng định vạn pháp là CÓ theo kiểu thấy thông thường. Người chứng đạo xóa sạch hết ư niệm CÓ, KHÔNG. V́ CÓ, không tự thể đó là CÓ mà không. KHÔNG, không tự thể nhưng không phải vĩnh viễn KHÔNG như sừng thỏ lông rùa. Hiểu chân lư đó hành giả không c̣n quan tâm vấn đề CÓ và KHÔNG. HỮU VÔ CÂU KHIỂN BẤT KHÔNG KHÔNG Người đạt đạo không những không vướng mắc vào một thứ không mà hai không, ba không... cho đến mười lăm không, mười sáu…thứ không cũng đều không vướng mắc. Tất cả chư Như Lai thành tựu quả vị của ḿnh cũng từ sự thể nhập chân lư thanh tịnh rỗng rang vô trụ vô trước ấy. *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ CĂN có sáu: Nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ư. Đó là cơ quan để cho sáu thức tâm vương biểu hiện thông qua sáu căn ấy. TÂM được biểu hiện ra sáu công dụng: Đó là tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc và biết. THỨC tâm Y căn mà biểu hiện. Căn là chỗ sở y của thức tâm, cho nên TÂM không ngoài sáu căn. Sáu căn không ngoài TÂM: TÂM là CĂN vậy. PHÁP tóm chung có sáu dạng, đó là: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Sáu món nầy đại biểu cho tất cả hiện tượng vạn hữu trước mắt ta. Tánh của chúng vốn không nhiễm ô, nhưng v́ chúng mà sáu căn của con người có thể nhiễm ô cho nên gọi chúng là TRẦN. TRẦN không ngoài các pháp, các pháp là những dữ kiện sanh ra TRẦN. PHÁP là TRẦN vậy. CĂN và TRẦN vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả sanh khởi phiền năo vô minh. Nguồn gốc của mọi nguyên nhân đau khổ. Nhưng truy nguyên, chúng chỉ là một thứ "huyễn hư" không tự tánh. Đối với tâm tánh trong sáng, rỗng rang thanh tịnh của con người, chúng chỉ là thứ bụi bặm phủ trên thể gương sáng mà thôi. Bụi lau rồi th́ thể sáng tự khắc hiện ra. TÂM con người, theo giáo lư Phật, từ xưa đến nay thể của nó vốn trong sáng rỗng rang thanh tịnh. Cảnh bên ngoài, sắc, thanh, hương, vị, xúc...tánh của chúng vốn lặng lẽ và vô t́nh, nào có gây nguyên nhân đau khổ cho ai ! Hành giả hồi quang phản chiếu nhận lấy TÂM KHÔNG vốn có, nhận biết CẢNH TỊCH vốn vậy, hành giả sẽ viễn ly được vọng tâm đắm nhiễm sai lầm chân lư trong cuộc sống hằng ngày. Bấy giờ hành giả sẽ sống trong "chân tâm thường trú", sống trong "thể tánh tịnh minh" vốn có của ḿnh. "TÂM PHÁP song vong tánh tức chân" Và hành giả với tâm trạng an nhiên thanh thoát ngâm nga:
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Phật pháp là CHÁNH PHÁP. Chánh pháp vô thỉ dĩ chí vô chung, không có MẠT ǵ cả. Cũng như LỬA vô thỉ đến nay đă nóng, đang nóng, dĩ chí vô chung LỬA sẽ măi măi là nóng. Khái niệm "mạt pháp" thuộc khái niệm nhận thức của tâm linh. Văn nhi tư, tư nhi tu một cách tinh tấn dũng mănh đem lại hiệu quả như ư một trăm phần trăm, gọi đó là "thời kỳ chánh pháp". Nghe mà không suy nghĩ, nghe hời hợt, qua loa chiếu lệ, tin càn, mù quáng, có tu mà ít có người đạt đạo. Người ta gọi là "tượng pháp". Chữ tượng có nghĩa là "na ná" giống như tu dữ lắm, nhưng v́ tu sai chánh pháp cho nên không đem lại kết quả. "Mạt" là ngọn, là sự cuối mùa, gió vẫn c̣n lai rai, nhưng không sập nhà được nữa. Sầu riêng c̣n bán, nhưng sượng ngắt chẳng ra ǵ... Sự tu hành của những tâm trạng lơ mơ, có h́nh thức, thân, khẩu, ư chẳng tu sửa, chẳng trau dồi, trí tuệ chẳng mở mang. Ở chùa chỉ làm cái việc thỉnh chuông ngày hai buổi, kinh kệ ê a rên rĩ vài lần. "Đạo nghiệp bất cần, công quả vô nhân khắc tựu". Tóm lại, Pháp ở nội tâm của người "mạt", không phải chánh pháp của Phật có "mạt". Chánh pháp trong ḷng "mạt" th́ ta sẽ là người ở trong "cơi đời nhiều trược ác", nghĩa là ta sẽ không có được sự an lành, thanh thoát, tự tại trong cuộc sống, gọi đó là "ác thời thế". MA ở ḷng ta "cường", Phật pháp ở ḷng ta "nhược". Ta không thương nhớ Phật, không tỉnh thức, trí tuệ bị vùi lấp bởi vô minh, cho nên sự hiểu biết sai quấy, mê tín dị đoan, duy tâm siêu h́nh...gọi chung là "tà kiến" ở ḷng ta ngày càng sâu nặng, nó làm cho tâm hồn, cuộc sống của ta quá nhiều phiền muộn khổ đau. Khi t́nh cờ nghe đọc, nhớ chánh pháp Như Lai về "Đốn Giáo" bừng tỉnh ra, th́ ta nhận ra rằng: Từ lâu nay, cuộc sống của ḿnh bị vô minh tà kiến dẫn dắt đi "lầm đường". Giờ này tỉnh ngộ, dơng dạc, đường hoàng thốt:
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Đạo Phật chú trọng TÂM, Ư, THỨC. Tâm, ư thức gọi có ba tên khác nhau là tùy theo diệu dụng biểu hiện ở môi trường, ở vị trí và hoàn cảnh khác nhau mà TÂM là then chốt. TÂM là chủ động cho mọi hành vi và ngôn ngữ biểu lộ trong cuộc sống hằng ngày. Không ai thấy được TÂM, nhưng người ta có thể biết được tâm của ḿnh, kể cả tâm của người khác. TÂM có thể xây dựng cho con người những quả phúc an lành. Trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát thậm chí địa vị Như Lai Vô Thượng Bồ Đề. Ngược lại, Tâm cũng tạo cho con người quả khổ gớm ghê như: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh mà con người mang chịu ngay trong cuộc sống trên cơi đời nầy.
Dấy khởi niệm dữ lành tâm là chủ. Nghiệp thiện, ác hiện hành ra thân miệng. Nếu hậu quả là xấu, tội lỗi th́ thân mang chịu khổ đau. Với chân lư nhân quả trong đạo Phật, hành động thiện hay ác của ḿnh làm, ḿnh thọ lấy hậu quả khổ hay vui, không ai, cũng không do sự oan khiên thù hận của ai đó đem gán ép cho ta được, dù đó là của "thần linh, thánh hiền" của những tâm hồn nhẹ dạ cả tin. Dựa trên chân lư NHÂN QUẢ, mọi người có thể xây dựng cho ḿnh một thế giới an vui, hạnh phúc, tự tại, khinh an, giải thoát, giác ngộ, Niết bàn tịnh lạc...Muốn làm được việc đó đừng phỉ báng chánh pháp của Như Lai mà phải học chánh pháp, hành theo chánh pháp và phải sống theo chánh pháp ngay bằng với giáo lư của THỪA mà ḿnh tu học hành tŕ. Giáo lư Phật có "ngũ thừa", như năm công ty du lịch sẵn sàng đón đưa khách gần xa, tùy số tiền và ư muốn của khách hàng mua vé đi du lịch vậy. Thiện, ác do tâm. Vui khổ do tâm....
Nghiệp vô gián, muốn tránh xa hăy tu học Như Lai chánh pháp" *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Người có ư chí, quyết đi con đường giải thoát, giác ngộ, tự lập chí, tạo cho ḿnh một hoàn cảnh sống, một thú vui riêng, một môi trường tiêu khiển và giải trí không giống với cách tổ chức, cách sinh hoạt của những bậc phong lưu, những hàng quí phái giàu sang trong xă hội. Tác giả Chứng Đạo Ca phác họa cách tự vui của ḿnh: Vui với cảnh thâm u, tịch mịch, vui với cây cỏ núi rừng, quạnh quẽ cô liêu. Rồi người tu sĩ rảo bước theo mé suối chân rừng, khi nh́n cảnh chiều tà ác vàng vừa khuất núi, lúc thưởng thức trăng thanh gió mát, khi thiền định dưới cội tùng xanh, lúc quán chiếu sự mầu nhiệm về chân lư duyên sinh của vạn tượng sum la muôn hồng ngh́n tía. Người tu sĩ không có th́ giờ nhiều trong việc thù tạc văng lai, tiếp nhân sử sự và thường tự nhủ: "...Thường độc hành, thường độc bộ..." Người tu sĩ đâu có dễ t́m "Đạt giả để đồng du....", thôi th́:
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Sư tử con vẫn là giống ṇi sư tử, ba năm tuổi đă biết gầm. Sư tử mà gầm th́ rung chuyển cả núi rừng, vang dội khắp hang sâu động hiểm. Chó hoang, chó chóc dù có lớn tuổi gấp năm, gấp bảy lần sư tử đi nữa, chó chóc vẫn là chó chóc. Dù chó chóc sủa suốt trăm năm, sủa vua, sủa đấng Giác ngộ, sủa Phật vẫn là tiếng chó chóc, sủa chẳng có chút giá trị nào mà c̣n chói tai những ai nghe chúng sủa. Tác giả Chứng Đạo Ca vạch ra rằng: Giá trị của chánh pháp vô cùng vĩ đại. Chánh pháp đánh thức những ai c̣n mê mộng, ch́m đắm trong sông ái biển mê. Chánh pháp réo gọi những khách phong trần đang say mê lợi danh vật dục. Chánh pháp phá tan những tà thuyết mê tín dị đoan, hoang đường, ảo tưởng của những tâm hồn yếu đuối, nhẹ dạ cả tin.Chánh pháp là ngọn đuốc sáng hướng dẫn cho ai đă lạc lối lầm đường, có điểm tựa để quay trở lại con đường quang minh chánh đại. Kinh điển Phật thường ví chánh pháp của Phật nói như tiếng gầm của sư tử. "...Ba tuổi năm, gầm rung chuyển núi rừng xanh..." Những tà giáo, phi chánh pháp dù có tuyên truyền rao giảng trải nhiều tháng năm, tốn nhiều công đức cũng không đem lại lợi ích cho ai. Tệ hơn nữa, những tà giáo ấy nhuộm bẩn tâm hồn trong trắng của những người có tâm lành, có ḷng tin, lẽ ra phải trong sáng. Chó dù sủa vua, vẫn là tiếng chó sủa. Suốt trăm năm cũng vẫn là tiếng "gâu gâu" của chó chóc, không v́ sủa lâu năm mà tiếng chó chóc tăng thêm giá trị.
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Giáo lư của đạo Phật có nhiều tư tưởng hệ: Thông giáo, biệt giáo, đốn giáo, viên giáo....Có hệ giáo lư khế cơ không khế lư. Có hệ giáo lư khế lư không khế cơ. Người thuyết pháp phải biết vận dụng "tứ tất đàn". Lúc nào vận dụng "thế giới tất đàn". Lúc nào chỉ phải nói "đệ nhất nghĩa tất đàn" mà không được vận dụng... Người nói pháp "đủ bản lănh" ứng cơ tiếp vật. Người nghe pháp cũng phải thành thật mà nghe và phản quán, tự đặt ḿnh thuộc đối tượng nào ? Thừa nào trong ngũ thừa ? Giáo nào trong ngũ giáo ? Chủng tánh nào trong ngũ chủng tánh ? Khi thuyết về Đốn Giáo, pháp sư không nên vận dụng, hạ thấp thành giáo lư "khế cơ" để đáp ứng cho số đông người. Giáo lư Đốn Giáo dành cho người "Đại thừa", có chủng tánh Đại thừa nghe và tu học lợi ích rất lớn. Tuy nhiên, pháp sư có thể bị công kích, phản đối, thậm chí hủy báng...Nếu gặp trường hợp như thế, th́ pháp sư hăy "mời để thảo luận trao đổi" hy vọng cởi mở mối nghi của riêng ai đó. Phần Pháp sư phải giữ lập trường:
"Viên Đốn giáo vật nhân t́nh" Có lẽ tác giả Chứng Đạo Ca cũng đă nếm mùi cay đắng trong những tháng năm "tiếp nhân xử sự" trong quá tŕnh hành đạo thuyết pháp rồi.
Quả là lời thiết tha như khẩn khoản và "xuống nước" v́ sự nói thẳng về pháp Viên Đốn của ḿnh. Tác giả Chứng Đạo Ca nói rằng ḿnh rất sợ sự tự cao, ngă mạn, v́ hành động đó dễ rớt vào Chấp Thường Đoạn. Điều mà tác giả không dám làm và không bao giờ làm ! *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ THỊ có nghĩa là đúng phải. PHI có nghĩa là sai, quấy. Có thể nói THỊ, PHI là vấn đề chót lưỡi đầu môi của mọi người trong cuộc sống hằng ngày. Tất cả mọi người đều có thể tưởng rằng vấn đề THỊ PHI là việc tầm thường cho nên ai cũng có quyền nói THỊ hoặc nói PHI. Ai cũng có quyền khen tặng hay phê phán kẻ khác một cách dễ dàng. Người được khen tặng, tâng bốc rất dễ bằng ḷng, đắc chí. Người bị phê phán, chê bai rất dễ thối chí năn ḷng thậm chí đâm hoang mang, sợ sệt. Dưới mắt của người Chứng Đạo, không phải vậy. Được khen hay bị chê đều phải cân nhắc, phải sử dụng lư trí, nhận xét khách quan vấn đề. KHEN, ai khen? CHÊ ai chê ? Người khen là hạng người nào? Người chê là hạng người nào ? Dựa trên tiêu chuẩn nào để khen, để chê, để nói đúng, nói sai. Sự thật, THỊ và PHI không ai t́m ra được h́nh mạo, dáng vẻ của thị phi. Vậy th́ vấn đề thị phi không phải dễ đánh giá, dễ nói trên đầu môi chót lưỡi mà người ta tưởng là ai cũng có thể nói phê phán ĐÚNG, SAI dễ dàng. Cái thấy của người Chứng Đạo: THỊ PHI không có dáng vẻ h́nh mạo, nó không có cái "tướng thực" cho nên trên cơi đời không có nhiều người đủ tư cách, có trí tuệ, chân chính, sự xét đoán mới đáng tin cậy. Cao hơn một bậc, người tu sĩ phải dựa trên chân lư NHÂN QUẢ để làm chuẩn đo THỊ và PHI. Lời nói, việc làm đem lại hậu quả lợi lạc thật sự, an ổn thật sự, hạnh phúc thật sự và giải thoát thật sự. Lời nói việc làm đó là THỊ. Ngược lại, dù có tán thán, có tâng bốc qua cửa miệng của đa số người cùng bào chuốt, ngợi khen, dưới cái thấy của người chứng đạo, đó vẫn là PHI.
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Văn nhi tư, tư nhi tu là tiến tŕnh, một hệ thống học tu trong đạo Phật. Thông thường, giáo lư kinh điển Phật dạy: Tu phải học. Học cho hiểu chân lư, để phân biệt đâu tà, đâu chánh, đâu chân, đâu ngụy, thế nào là Đại, thế nào là Tiểu, thế nào là Thiên, thế nào là Viên. Cho nên người ta ví: Học như đôi mắt, tu như hai chân. Muốn đi đến đích nhờ hai chân khoẻ mạnh đă đành, nhưng nếu không có đôi mắt sáng th́ đôi chân khỏe cũng không thỏa măn được sự mong cầu đến đích. Đại Trí Văn Thù và Đại Hạnh Phổ Hiền, hai vị Bồ tát được biểu trưng cho giáo lư TRI HÀNH trong đạo Phật. Tri hành hợp nhất, chắc chắn đường tu sẽ thành công viên măn. Qua cái thấy của người chứng đạo, tri chưa sâu sắc tinh tường, chưa được hành, hoặc tri mà không hành chỉ làm "đau ḷng Phật" sẽ bị Phật quở trách cho: Rằng vào biển đếm cát, vào kho đếm bạc không công, là việc làm của người không thực tế trong cuộc sống, làm những việc vô ích ấy, ai khen. Rốt cuộc, "nhất đán vô thường..."Ngoảnh nh́n lại cuộc đời những năm tháng trôi qua th́ chính ḿnh chỉ là khách phong trần dày gió dạn sương, trôi nổi theo ḍng thời gian, năm tàn tháng lụn không đem lại cho bản thân một sự an lạc nào ! Trên bước đường tu học theo đạo Phật, "Hành giả" mới đem lại sự an lạc, giác ngộ, giải thoát cho người tu sĩ. Học giả, học để trích cú tầm chương, chỉ là người phân biệt danh ngôn, lăng mạn hơn, đem sở học biến thành tṛ tiêu khiển: "ngâm phong vịnh nguyệt". Bí quyết của sự tu hành, của sự giải thoát, giác ngộ, của sự nhận thức chân lư với cách nh́n vạn pháp th́ nói rặt những thứ bọt bèo, b́a chéo, rẻ rề !... Cái nh́n của người chứng đạo, tác giả Chứng Đạo Ca, KHẤT SĨ mới quí. Thạc sĩ, tiến sĩ chỉ quí ở thế gian và với thế gian mà thôi. Trong đạo Phật không quí văn bằng, học vị. Thời Phật tại thế, Phật dạy cho những người ngoại cấp, không học vị văn bằng vẫn thành công trong giải thoát giác ngộ. Ở Đông độ, Lục Tổ Huệ Năng được người đời kính quư tôn thờ... cũng chẳng văn bằng học vị. Thảo nào tác giả Chứng Đạo Ca tự trách:
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Giáo lư của đạo Phật về "b́nh đẳng môn" th́ tất cả chúng sinh là Phật, tất cả chúng sinh sẽ thành Phật. Tuy nhiên về "sai biệt môn" th́ căn cơ chủng tánh là tiêu chuẩn, thước đo để đoán định sự thành công sớm hay muộn trên con đường đi đến đích giác ngộ giải thoát. Người có chủng tánh ngoại đạo khó tiếp thu giáo lư liễu nghĩa thượng thừa. Họ là người theo cái đạo "cầu bên ngoài" trông chờ ỷ lại nơi sự giúp đỡ, che chở của tha nhân, của quỷ thần, của những đấng họ đặt niềm tin mà không bao giờ kiểm chứng được. Giáo lư Viên Đốn, người chủng tánh Đại thừa, những bậc tối thượng lợi căn mới có thể tiếp thu tốt. Hàng chủng tánh Nhị thừa, Thanh văn, Duyên giác, đức tinh tấn th́ tốt nhưng chưa đủ trí tuệ để tư duy, quán chiếu tinh tường giáo lư Viên Đốn. C̣n nói chi hạng tiểu căn cơ, trí tuệ thô thiển, phương tiện và cứu cánh lộn ṣng: Nh́n nắm tay mà cho rằng đă bắt được hư không thật. Trên đường tu, căn cơ, chủng tánh, trí tuệ không có th́ sự tu hành rất khó thành công, phương tiện và cứu cánh không nhận thức cho rơ ràng, lấy phương tiện làm cứu cánh th́ mục tiêu giác ngộ giải thoát không bao giờ có được. Không nhận thức được chất thanh tịnh bản nhiên của CĂN và CẢNH khiến cho căn cảnh trở thành một thứ nguyên nhân khổ đau tai họa. Sự thật, CĂN CẢNH nào có tội t́nh ǵ ! Chỉ v́ sự tiểu căn, thiển trí không tiếp thu nổi Đại thừa Viên Đốn của Như Lai cho nên giống như tu nhiều, cần khổ tinh tấn cả cuộc đời mà không thọ dụng được quả an lạc giải thoát giác ngộ ! *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Hiện tượng sum la, muôn hồng ngh́n tía vạn biệt thiên sai trước mắt, nh́n bằng cái nh́n của nhục nhăn th́ không ai có thể phủ nhận được điều đó. Qua con mắt của người chứng đạo, CĂN CẢNH đều là một thứ pháp "duyên sinh". Mà duyên sinh th́ không có cái "Tự ngă", cái "Thực thể". Thế cho nên:
Với Phật nhăn, thấy tất cả, mà như không thấy ǵ hết, "như không thấy ǵ hết", v́ thấy tận tường "thực tướng" của vạn pháp là vô tướng. Phật, theo giáo lư của đạo Phật, không phải là cái ông ǵ ghê gớm lắm đâu. Phật là người, một con người khác hơn nhiều người ở chỗ nh́n vạn pháp mà "không thấy một pháp nào". Phật, sự thật chỉ có vậy. Người nào có khả năng như vậy, người đó là Như Lai, là Phật. Địa vị Phật trong Phật giáo không phải địa vị độc tôn dành riêng cho "một ông Phật nào" hay "một tập đoàn Phật" ở một cơi nước thanh tịnh xa xôi nào. Người nào có được "chánh quán niệm" thường xuyên liên tục, giữ được cái trong sáng, cái thấy, thấy tận tường thực tướng của vạn pháp, gọi đó là "Quán tự tại". Theo cái thấy của người chứng đạo, tác giả Chứng Đạo Ca "Quán tự tại" không là một con người mà là "một pháp Quán" được liên tục thường xuyên không bị tạp niệm vọng tưởng xen vào. TỘI TÁNH BỔN KHÔNG, th́ cái gọi là nghiệp chướng cũng không có được thực."...Ngũ uẩn phù hư không khứ lai". "Tam độc thủy bào hư xuất một".... Cho nên:
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Giáo lư của đạo Phật dạy rằng: Là một con người, tự ḿnh định đoạt số phận ḿnh không ai thay thế sắp xếp định đoạt cho ḿnh được. Cải tạo và xây dựng là hai mặt tích cực, con người dựa vào đó mà quyết định hướng đi và nơi đến của đời ḿnh. Không cải tạo, đào thải, gạn bỏ vô minh phiền năo, không xây dựng đức tánh từ, bi, hỉ, xả bồi dưỡng phước đức, trí tuệ th́ địa vị Hiền thánh, quả Bồ đề, Niết bàn không ai ban cho ta được. Đói phải ăn mới no được. Tiệc của vua chiêu đăi, không ăn vẫn đói. Bệnh phải uống thuốc mới lành, tránh thầy, trốn thuốc, bệnh không lành được. Học chánh pháp, phải hành theo chánh pháp mới đem lại kết quả giác ngộ, giải thoát thật sự. Đối với chánh pháp không dám nghe, không để tâm suy nghĩ, không hành th́ không hy vọng ǵ ở nơi sự giúp đỡ bất cứ từ đâu đến.
Dưới mắt của người chứng đạo, tu sĩ cần có nghị lực, có trí tuệ sắc bén đủ sức CẢI TẠO TẠI CHỖ, phiền năo vô minh, chuyển phiền năo thành Niết bàn. Chuyển sinh tử thành Bồ đề ngay nơi cơi Ta bà ở trong CƠI DỤC. Đó là điều người tu sĩ, đệ tử Phật phải làm và làm được. Người hành thiền không cần trốn tránh, không cần xa lánh phiền năo vô minh, t́m một nơi, một cơi nào đó "thanh tịnh" để Thiền. Sen mọc từ bùn mà không hôi tanh mùi bùn mới là mầu nhiệm. Sen mọc trong biển lửa sắc màu vẫn tươi nhuận, càng mầu nhiệm hơn !
Vấn đề TỘI PHƯỚC:
Theo giáo lư Đại thừa liễu nghĩa:
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Người đệ tử Phật, đọc bài thi ca này phải giữ chánh niệm không được phóng tâm buông lơi cảnh giác về "Thừa", về "Giáo", về "Tất đàn", về "Chủng tánh". Phải tự soát lại tư tưởng và nhận định về kiến thức của ḿnh. Giáo lư Đại thừa phải nhân thức bằng tư tưởng đại thừa của người chủng tánh Đại thừa. Đem nhận thức, tư tưởng và chủng tánh không phải Đại thừa để mong đáp ứng thỏa măn ư muốn là điều không thể có.
Với nguồn tư tưởng ṿi vọi như vậy không phải căn cơ chủng tánh nào cũng bằng ḷng tiếp thu. V́ vậy, phải thận trọng khi đọc và t́m hiểu nguồn tư tưởng Đại thừa. ! *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Tiếp ư bài thi ca 50, nói về vấn đề PHẠM GIỚI, mắc tội được giải quyết theo quan điểm và tư tưởng của Đại thừa. Thi ca 51 nầy, hai Tỳ kheo phạm cùng một tội danh và cùng một tội trạng. Thế mà, Ưu Ba Ly thượng thủ xử hai thầy phải tội trọng, tội "đoạn đầu", "khí", tức là tội phải đuổi khỏi Tăng đoàn khất sĩ, không được làm Tỳ kheo, không cho tu nữa. Đại sĩ Duy Ma Cật thay mặt cho hai Tỳ kheo "kháng án" và nhân danh Đại thừa tư tưởng, phát huy Đại thừa chủng tánh của hai thầy, Đại sĩ Duy Ma Cật xử hai thầy "trắng án". V́ lẽ TỘI TÁNH BỔN KHÔNG....rơ ràng:
Ưu Ba Ly xử "đoạn đầu" là xử theo Tiểu thừa tư tưởng. Duy Ma Đại sĩ xử "trắng án" là xử theo Đại thừa tư tưởng và phát huy Đại thừa chủng tánh vốn có trong hai thầy Tỳ kheo ấy. *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Giúp cho người của cải vật chất chỉ cứu được ngặt, không cứu được nghèo. Họa hoằn một đôi khi có cứu thoát được nghèo nhưng không cứu được khổ. Khổ, khó cứu. Bao nhiêu người chết oan, chết ức, chết tức, chết tưởi chỉ v́ khổ, không phải ngặt nghèo. Có rất nhiều trường hợp ở trong cảnh ngặt nghèo mà người ta không hề khổ. Giúp cho người chánh pháp, khiến cho người hết khổ. Từ hết khổ là điều kiện rất cần để tiến tới hết ngặt, hết nghèo. Đó không phải là điều khó hiểu. Đạo Phật chủ trương cứu khổ là mục đích chính. Cứu nghèo là khuyến khích tiến lên. Bởi v́ nghèo, ngặt người ta vẫn có thể có hạnh phúc, an lạc, tự tại, khinh an thậm chí giác ngộ, giải thoát được. Ở trong cảnh lầu son, gác tía, vàng ngọc đầy rương vậy mà xưa nay biết bao nhiêu người không hề có an lạc, hạnh phúc....trong cảnh phù hoa ấy. Của cải vật chất có chăng, chỉ đem lại cho con người sự an vui mong manh, tạm bợ trong hiện tại. Chánh pháp của Như Lai, ban cho người thọ dụng sẽ có được an vui vĩnh cửu, vui Niết bàn, vui bất diệt bất sinh. Đó là ư nghĩa:
Giáo lư Phật dạy cho biết: Tài thuộc ngũ gia. Của cải vật chất có thể là nguyên nhân đau khổ cho chính những ai tham lam cất chứa nó. Đấy cũng không phải chuyện khó thấy, khó hiểu. Thế cho nên, người làm cái việc PHÁP THÍ nói chánh pháp rồi động viên cổ vũ mọi người cùng với ḿnh sống trong chánh pháp. Làm được việc đó, phước đức vô lượng vô biên. Đó không phải đại ngôn mà là sự thật. Bởi v́ làm được điều đó, tức là ḿnh và người đều đạt đến mục đích, đến đỉnh cao của kiếp sống con người. Làm được vậy, vấn đề "tứ sự cúng dường" và thọ dụng tứ sự cúng dường không c̣n ǵ đáng ngại mà khỏi lo sợ "nợ nần", "vay trả" để rồi phải "từ nan". Cổ Nho c̣n nói:
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Là môn sinh tử đệ của Phật, cần phải hiểu Phật. Phật không bao giờ bằng ḷng cho ai tôn xưng ḿnh là ĐẤNG SIÊU NHIÊN SIÊU NHÂN ǵ hết. Phật bằng ḷng và rất bằng ḷng khi người ta hiểu Phật chỉ là một con người. Và chỉ khác hơn con người ở chỗ: Phật là con người đă phát huy trí tuệ đến mức tận cùng cao tột của trí tuệ. Đạt đến đỉnh cao tột của trí tuệ, có khả năng nhận thức chân lư một cách viên măn, không c̣n một sai lầm nhỏ, một tí xíu mù mờ. Trạng thái tỉnh thức, sáng suốt đó, người ta gọi là GIÁC NGỘ. Cho nên, Phật bằng ḷng khi người ta hiểu Ngài là một GIÁC GIẢ. bậc "Giác Giả" nhận thức chân lư, nhận thức về lẽ sống của con người rất viên măn, cho nên Phật không hề có sai lầm. V́ không sai lầm chân lư cho nên Phật có sức tự chủ với lục căn, tự tại với lục cảnh, trừ bỏ hết vô minh bao phủ của lục trần, vậy thôi ! V́ sức tự chủ, tự tại đối với vạn pháp, cho nên Phật cũng bằng ḷng khi đệ tử gọi ḿnh với đức hiệu PHÁP VƯƠNG, là vị đạo sư VUA ĐỐI VỚI CÁC PHÁP. Mười phương Như Lai cùng chung một thứ quả vị giống nhau như vậy. Mười phương chư Như Lai cũng chẳng phải là thứ ông ǵ ghê gớm như nhiều người hiểu lầm về Như Lai Phật. Tác giả Chứng Đạo Ca nói rằng: Những điều tôi tŕnh bày trong đây là ư tứ của Phật, của kinh, tôi chỉ "Bảo châu Như ư" của chư Như Lai có, các bạn cũng đă có sẵn trong các bạn. Nếu các bạn đồng ư về giáo lư b́nh đẳng tuyệt đối nầy th́ bạn cũng như tôi, chúng ta cùng thọ dụng b́nh đẳng, về Phật tánh b́nh đẳng vốn có trong tất cả mọi người. V́ Phật là một con người, bạn cũng là một con người, th́ cái ǵ Phật có, bạn cũng sẽ có. Hăy luôn luôn nhớ rơ: PHẬT CHỈ LÀ MỘT BẬC PHÁP VƯƠNG *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Trước mắt người chứng đạo, thấy vạn vật không có thật vật, thấy người không thật người, thấy Hiền Thánh không thật có Hiền Thánh và Phật cũng không có Phật. Đại thiên thế giới nhiều như cát sông Hằng, cũng chỉ như thứ bọt bèo hữu cùng nổi ch́m sanh diệt ở trên mặt nước biển vô cùng, nghĩa là cũng không có thật Đại thiên sa giới...Người chứng đạo, nh́n vạn pháp qua cái thấy của tuệ nhăn. Cái thấy của người chứng đạo là kết quả của mọi quá tŕnh tu tập quán chiếu tư duy, thiền định lâu dài. Cho nên cái thấy của người chứng đạo nh́n thủng các lớp màn vô minh chấp mắc bao vạn đời kiếp của con người, thấy được cái THỰC TƯỚNG của vũ trụ vạn hữu là "tướng duyên sinh" mà có. Có bằng cái có của "duyên sinh". Nhân duyên c̣n ḥa hợp th́ c̣n có gọi là sinh. Khi nhân duyên chia ly th́ gọi là diệt. Dưới cái thấy của Tuệ nhăn, vạn pháp CÓ mà không thực có. V́ nó không có cái tự ngă chân thật của riêng nó. Nhưng người chứng đạo, cũng không hoàn toàn phủ nhận rằng vạn pháp là KHÔNG, v́ vạn pháp không phải trống không như không của sừng thỏ lông rùa. Hiền Thánh, Trời Phật tư duy cho sâu sắc, quán chiếu cho tinh tường chân lư, người ta sẽ hiểu tất cả những từ để xưng gọi các địa vị tôn quư đó, cũng chỉ là danh ngôn giả lập mà ra. Hiền Thánh là ai ? Trời là ai? Phật là ai ? Tất cả địa vị ấy, danh xưng tôn quí ấy đều từ một con người. Dựa vào tiêu chuẩn giác ngộ chân lư trọn vẹn hay chưa mà "ước định" cấp bậc và gán cho cái danh xưng ấy. Mà danh xưng giả lập th́ cũng chỉ một dạng "duyên sinh như huyễn" của vạn pháp ở trong vạn pháp. Do vậy, trước cái thấy của người chứng đạo là: KHÔNG CÓ THẬT VẬT và KHÔNG CÓ THẬT TẤT CẢ. *****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Áng văn 288 câu dệt thành tác phẩm THI CA CHỨNG ĐẠO, thuần chất liệu tư tưởng Đại thừa VIÊN ĐỐN. VIÊN ĐỐN GIÁO VẬT NHÂN T̀NH. Tác giả Chứng Đạo Ca đă tiên liệu một cách chắc chắn rằng sẽ có rất nhiều người , rất nhiều tập đoàn tập thể, họ cũng mệnh danh là đạo này, đức nọ, phê đây phán kia, đối với nguồn tư tưởng liễu nghĩa Đại thừa. Thi ca số 55 nầy tác giả khẳng định lập trường và tư tưởng của ḿnh một cách quyết liệt.
"Chân lư" được cô đọng trong 288 câu của tác phẩm Chứng Đạo Ca là chân lư Liễu nghĩa Đại thừa, cho nên lũ ma quân làm sao có khả năng, làm sao có trí thức nào khác đủ sức để mà xuyên tạc mà đối thoại. Đối với hạng người không "tri kỷ tri bỉ.." đọc lơm bơm vài quyển sách loại "tiền nào của nấy"....mà khua môi, múa mép, căi cối căi chày th́ tác giả nghiêm khắc:
*****Top
CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO
TRỰC CHỈ Đường đi của thỏ, nhỏ hẹp ngoằn ngoèo, luồn qua lách lại theo hốc đá kẽ cây. V́ vậy, chỉ có thỏ, đi theo con đường của thỏ. Voi th́ đi đường thênh thang rộng lớn, có lúc chà đạp cây rừng, hất văng đá khối để mở lối đi cho ḿnh. Ở Việt Nam có thiền sư Quảng Nghiêm, từng dơng dạc nói lên ư nghĩ táo bạo, tràn đầy chất liệu Đại thừa:
Là trượng phu, hăy nuôi chí lớn, khai đường mở lối mà đi, đừng dơi theo dấu chân của Như Lai để bước. Hăy nhắm đích để mà đến. C̣n đi bằng phương tiện ǵ, phát xuất từ hướng nào, việc ấy không cần câu nệ. Đến như những lễ nghi bề ngoài có tánh khách sáo, những tập quán thờ phượng, cúng bái, khấn nguyện, van xin theo kiểu tín ngưỡng của một tôn giáo tầm thường, dưới mắt người chứng đạo, tất cả là "tiểu tiết". Bậc Đại ngộ không chấp nhận những thứ đó trong chánh pháp.
Có nghĩa là những tập quán, lễ nghi h́nh thức rườm rà vặt vănh ấy không hợp chánh pháp, người đại ngộ không làm. Dù có trái ư nghịch ḷng với một số bạn đồng song, pháp lữ đồng sàng dị mộng, bậc đại ngộ vẫn cam ḷng chấp nhận. Bởi v́, nh́n trời qua những điều kiện khác nhau th́ nhận biết về trời cũng không sao đồng nhau được. Cho nên bậc đại ngộ, phải thấy bằng cái thấy của ḿnh, biết bằng cái biết của ḿnh. Nếu phải nói, th́ lời nói ra phải bằng ngôn từ ư tứ của chính ḿnh.
*****Top
HẾT ! |