 |
Vào một buổi sáng của
tháng 7 năm 1891, có một thanh niên người Pháp 28 tuổi, dáng người
mảnh khảnh rụt rè, từ một chiếc tàu thủy chở khách của Pháp bước lên
bờ biển Nha Trang để ngắm cảnh. Người đó là Alexandre John Emile
Yersin, sinh ngày 22.9.1863 tại Vaud, Thụy Sĩ, nhưng tốt nghiệp y
khoa tại Pháp là quê của mẹ. Là một thầy thuốc, Yersin đã thấy lý
tưởng cao đẹp của nghề này, tuy nhiên là một con người thích mạo
hiểm |
phiêu lưu,
Yersin không thể mãi mãi tự giam mình trong phòng thí nghiệm, cả quả dất
là một nơi thí nghiệm rộng lớn. Yersin đã vứt bỏ tất cả để thực hiện ước
mơ dó. Sự ra đi của ông , khiến các đồng nghiệp tại viện Pasteur Paris
bàng hoàng. Yersin đã viết thư cho mẹ kể lai cái ngày đáng ghi nhó ấy
và cảm giác tốt đẹp của ông. Ðó là ngày 29.7.1891.
Nha Trang hồi ấy chỉ là một bờ biển với một bãi cát hoang vu một làng chài
vài mươi nóc tranh, phía bên kia sông Cù Lao là một ngọn đồi có ngôi đền
huyền bí ẩn mình trong những đám lá sum sê của các cây cổ thụ. Bên này sát
bờ biển, lơ thơ vài ngôi nhà của người Pháp. Ðại diện Nam triều đóng ở
thành Diên Khánh. Ðiều gì đó đã khiến cho Yersin quyết định dừng chân và
chọn nơi đây làm quê hương thứ hai, để sống, để làm, và để từ giã cõi đời
ở đây?
Chắc chắn
không phải vì viễn cảnh của một đô thị phồn hoa, mà chỉ là một phong cảnh
hữu tình, với bờ biển, cửa sông, các đảo ngoài khơi, nước biển trong xanh,
màu sắc rực rỡ của một vùng quê nhiệt đới với khí hậu vô cùng dể chịu.
Hàng ngày ông đi theo bãi cát trắng vắng người từ Nha Trang đến Cầu Ðá,
nơi mà bờ biển đột ngột đổ dốc xuống phía đông. Trong một lá thư gởi bác
sĩ Roux, một đồng nghiệp trước đây, Yersin đã ca tụng Nha Trang như thế
này:"Hảy
đến đây với tôi, ông sẽ biết ở đây thú vị như thế nào, thời tiết không
nóng nhiều, cũng không lạnh lắm, một không khí thanh bình tuyệt đối..."
.
Xa cái ồn ào náo
nhiệt của thành phố, một mình giữa biển cả và núi cao, ông có điều kiện để
suy nghĩ về công việc đang làm, ông nhớ mẹ, nhớ chị, nhất là mẹ. Những lúc
rảnh rỗi ông đi tìm hiểu Nha Trang và vùng phụ cận, đặc biệt là một xóm
dân nghèo ở gần cửa sông Cái. Ðó là xóm Cồn ngày nay. Cứ mỗi lần kết thúc
một cuộc thám hiểm ở vùng xa, Yersin lại trở về với người dân Nha Trang và
Xóm Cồn như là về với người thân của mình. Suốt những năm tháng ông sống ở
đây, hầu hết người dân vùng này đều chịu ơn ông. Người thì nhiều lần được
Yersin khám bệnh cho thuốc, người thì được ông cứu sống thoát khỏi các
chứng bệnh hiểm nghèo. Nhiều ngư dân thoát khỏi tai nạn đắm thuyền gặp
giông bão vì từ ngoài biển đã nhìn thấy được những chiếc bồ đen treo cao
trên nóc lầu ông Năm (tên Việt Nam của Yersin), dấu hiệu báo có bão
tới của Yersin nên họ đã kịp thời cho thuyền vào bờ lánh nạn.
Sau Nha Trang, Yersin lại
tiếp tục lên đường thám hiểm, khám phá những vùng đất mới của một xứ sở mà
ông yêu thích. Trong chuyến thám hiểm lần thứ hai Yersin đã tìm ra nơi có
thể xây dựng một thành phố trên vùng đất cao 1,500 mét, tức Ðà Lạt ngày
nay. Trong nhật ký ngày 21.6.1893, Yersin đã viết:"Tôi
xúc động sâu sắc khi vừa vượt khỏi rừng thông, đã đối diện với một cao
nguyên mênh mông, nhấp nhô, hoang vu, không cây cối, có dáng hình một vùng
biển xao động mãnh liệt bởi một loại sóng nhấp nhô màu xanh. Dãy núi Lang
Bian (Lâm Viên) đúng sừng sửng phía chân trời tây bắc của cao nguyên, làm
cho phong cảnh tăng thêm vẽ hùng vĩ...".
Năm 1899, thành phố Ðà Lạt bắt đầu được xây dựng. |
 |
Năm 1895-1896, Yersin bắt đầu
xây dựng nền móng đầu tiên của viện Pasteur Nha Trang và Trại Chăn Nuôi
Suối Dầu. Khi việc sản xuất vacxin và huyết thanh bắt đầu ổn định, ông
nghĩ đến việc tìm một loại cây trồng để nuôi sống nhân viên và cũng để
cung cấp một phần kinh phí cho hoạt động của viện Pasteur Nha Trang, một
viện thuộc một tổ chức tư nhân của viện Pasteur bên Pháp. |
Loại cây trồng
Yersin chọn là cây cao su, một loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế
cao. Suối Dầu lúc bấy giờ đang còn trong thời kỳ xây dựng cơ bản, sống nhờ
phần lớn vào việc trồng cây cao su. Nhiều loại cây nhiệt đới khác cũng
được trồng thí nghiệm tại Suối Dầu trong đó có cây canh-ki-na, một
loại cây trị bệnh sốt rét nổi tiếng. Cây
canh-ki-na được trồng ở vùng cao nhất ở núi Hòn Bà Suối Dầu. Vùng
cao trung bình trồng cây càfê, cây trà và cây ca cao, nơi thấp nhất trồng
cây cao su. Nhưng cây canh-ki-na không phát triển tốt ở Hòn Bà nên sau đó
Yersin đưa lên trồng gần Ðà Lạt. Năm 1894 Yersin đã xin chính phủ Pháp cho
phép đi Hồng Kông để nghiên cứu nguyên nhân bệnh dịch hạch lúc đó đang bộc
phát trầm trọng, giết chết 95% số bệnh nhân. Trong chuyến đi này, Yersin
đã tìm ra được vi khuẩn gây bệnh dịch hạch và nhờ đó huyết thanh miễn
nhiễm được sáng chế để cứu nhân loại. Ðể ghi nhớ khám phá lớn lao này, hội
nghị sinh vật học thế giới tổ chức năm 1979 đã lấy tên ông đăt tên cho vi
khuẩn: "Yersinia Pestis".
Năm 1895, chính quyền Pháp đô
hộ tặng cho ông một căn nhà gần Xóm Cồn và cửa sông Cái. Căn nhà được sơn
lại màu trắng và đã trở thành một nơi thân thương của người dân địa
phương. Sau giờ làm việc tại viện Pasteur Nha Trang, Yersin trở về nhà
mình ở Xóm Cồn, một ngôi nhà ấm cúng đầy tình thương giữa các dân chài
nghèo khổ. Ông rất yêu thương trẻ con Xóm Cồn, thường chiếu phim vui cho
chúng coi cũng như trẻ con rất thích ông chia kẹo hằng ngày. Dưới con mắt
đồng bào Xóm Cồn thời bấy giờ, Yersin là một người đáng kính phục, khác
hẳn với những người Pháp khác, những kẻ cai trị thường ức hiếp khinh miệt
dân "bản xứ". Nhiều người chẳng biết tên ông, một cái tên khó đọc,
khó viết, người ta chỉ gọi ông là "ông Năm" là đủ. Từ "ông Năm" trong cách
xưng hô của người Việt Nam có gì gần gủi và thân mật như người ta thường
xưng hô trong gia đình. Trong nhà ông Năm có một tủ sách cho nhi đồng và
hàng ngày ông thường đọc những mẩu chuyện cho trẻ con nghe, hoặc chiếu
phim khi có thì giờ rảnh rỗi. Ông yêu ngành thiên văn học và đã lắp đặt
một viễn vọng kính trên nóc nhà để theo dõi thời tiết, giúp cho ngư dân
tránh khi có bão xuất hiện. Ðể giúp cho ngư dân đánh cá ngoài khơi, ông
làm hai cái bồ to, có đường kính một mét, trên sơn màu đen. Khi có bão,
hai cái bồ được kéo lên hai cây cột trên núi Sinh Trung để báo hiệu. Nhờ
những dụng cụ thô sơ ấy, Yersin đã cứu được nhiều thuyền của ngư dân qua
cơn sóng to gió lớn. Tháng 11.1939, một cơn bão lớn đổ vào bờ biển Nha
Trang, Yersin lập tức tập trung tất cả bà con ngư dân Xóm Cồn vào trong
nhà mình. Cơn bão dữ dội đêm ấy đã cuốn trôi nhiều nhà cửa Xóm Cồn nhưng
bà con vẫn an toàn. Từ hôm ấy Yersin đưọc người dân Xóm Cồn gọi bằng cái
tên trìu mến:"Người đã trị được con sóng thần". Yersin cũng là người có
một lối sống đạm bạc. Ông ăn mặc giản dị qua bộ quần áo kaki, áo cổ bẻ
chẳng bao giờ có cà vạt, ngày hai lần đi làm với chiếc xe đạp cũ, quen
thuộc. Ăn uống của ông cũng rất đơn giản và chẳng bao giờ có tiệc tùng
đình đám tại nhà. Yersin không lập gia đình, mê say công việc, thích sự
thành thật, tránh hội hè và chổ đông người. Ông tự coi mình là một người
dân trong làng, một người có phần may mắn hơn người khác. |
 |
Ông có xe ô
tô riêng nhưng hàng ngày đi làm ông vẫn dùng chiếc xe đạp Peugeot đã cũ.
Người địa phương kể rằng có lần xe ông đang chạy trên đường, có một đứa
trẻ bất ngờ chạy băng qua, ông đã kịp thời đạp thắng cho xe dừng lại,
không xảy ra tai nạn gì, nhưng đứa trẻ thì ngã xuống đường, khóc thét lên
vì hoảng sợ. Ông mở cửa xe, |
chạy xuống bồng đứa bé lên , an ủi dổ dành nó.
Từ đó người ta không thấy ông dùng xe ô tô đi làm hàng ngày nữa mà chỉ đạp
xe đạp. Nhưng rồi chính ông, có lần đang đạp xe đạp trên đường lại bị một
chiếc xe ô tô quệt phải làm ông ngã xuống đường. Ông không nói một lời
nào, vội vã dựng xe đạp lên và đi đến viện để băng bó, không đả động gì
đến người tài xế có lỗi, mặc dù ai cũng biết, ông chỉ cần
giơ ngón tay lên thì người tài xế sẽ bị trừng phạt như thế nào. Cũng cần
nói thêm: đối với gia đình, Alexandre Yersin là một người con hiếu thảo.
Trong 52 năm ở Việt Nam và Nha Trang, hầu như tuần lể nào ông cũng viết
thư cho mẹ. Tính đến khi mẹ mất, năm 1905, ông đã gởi gần 1,000 bức thư,
báo cho bà biết về sức khỏe và công ciệc hàng ngày của mình. Khi mẹ mất
rồi, Yersin tiếp tục gởi thư cho chị là Emile. Thỉnh thoảng ông cũng về
thăm quê hương, chuyến về tháng 3.1940 là chuyến cuối cùng của ông về
Pháp. |

Mộ bs Yersin tại
Suối Dầu |
Ông chết lúc 1 giờ ngày
01.3.1943. Một ngày trước khi từ giã cõi đời, người ta vẫn thấy ông ngồi
trên chiếc ghế xích đu quen thuộc trong "lầu ông Năm", dùng ống dòm nhìn
ra hai cọc đo mực nước cắm ở sông và biển để ghi lại mức nước thủy triều ở
Nha Trang trong ngày. Chiếc xích đu từ từ dừng lại, người cộng sự đắc |
lực
gần ông nhất đã vuốt mắt tiễn đưa ông lần cuối. Di chúc để lại cho người
cộng sự có đoạn: "Khi
tôi chết, tôi ước muốn được chôn cất ở Suối Dầu. Hảy giữ tôi lại với Nha
Trang, đừng cho ai lấy tôi đi. Mọi tài sản còn lại xin
tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang và một số người làm việc lâu năm.."
. Yersin là
người sinh ra ở Thụy Sĩ, mang quốc tịch Pháp, nhưng lại có hơn 50 năm, có
thể nói gần suốt cuộc đời, ông đã chọn Nha Trang làm nơi sống và làm việc.
Những công trình khoa học ông để lại là của chung nhân loại. Người Thụy
Sĩ, người Pháp và người Việt Namcó thể tự hào về ông. Nhưng riêng về mặt
tình cảm, người Nha Trang có thể tự hào là đã được ông dành gần như trọn
vẹn trái tim mình và họ cũng đáp lại ông bằng bằng tấm lòng biết ơn và
kính yêu vô hạn. Ðã hơn nữa thế kỷ Yersin vĩnh biệt Nha Trang nhưng những
gì ông để lại vẫn được trân trọng trong lòng con người ở đây. Alexandre
Yersin đã không lầm khi chọn Nha Trang làm nơi sống và làm việc gần như
suốt cả cuộc đời mình. |
Tóm Tắt
sự nghiệp khoa học:
- 1883: Tú tài văn chương tại
viện Hàn Lâm Laussannne.
-1887: Phụ tá cho bs Emile
Roux tại viện Pasteur Paris.
-1888: Bác sĩ y khoa trường
đại học Paris.
- 1895: Giám đốc viện Pasteur
Nha Trang.
- 1896: Giám đốc các trại
chăn nuôi của viện Pasteur tại Ðông Dương.
- 1902: Giám đốc đầu tiên của
trường y khoa Ðông Dương.
- 1904: Ủy viên nhiệm chức
tại Ðông Dương của viện Pasteur Paris.
- 1924: Tổng thanh tra các
viện Pasteur Ðông Dương.
- 1933: Giám đốc danh dự viện
Pasteur Paris.
Các tước
hiệu khoa học và hàn lâm:
- Thủ khoa trường đại học y
khoa Paris
- Thủ khoa hội Ðịa Dư Paris
(huy chương Dupleix)
- Thủ khoa của hội Ðịa Dư
Saint Etienne (huy chương vàng Francis Garnier)
- Thủ khoa Hàn Lâm Viện khoa
học luân lý và chính trị (giải thưởng Audiffred)
- Thủ khoa Bộ Giáo dục quốc
dân (giải thưởng khoa học Lasserre)
- Thủ khoa Hàn Lâm Viện khoa
học (giải thưởng Lecomte)
- Viện sĩ viện Hàn Lâm các
viện khoa học tại Pháp.
Công
trình khoa học để lại:
- 1888: Tìm ra độc tố bệnh
bạch hầu cùng chung với bác sĩ Emile Roux.
- 1893: Khám phá ra cao
nguyên Langbian (Lâm Viên) và xây dựng thành phố Ðà Lạt.
- 1894: Tìm ra vi trùng bệnh
dịch hạch của con người và điều chế huyết thanh ngừa bệnh.
- 1895: Thành lập viện
Pasteur Nha Trang.
- 1896: Xây dựng các trại
chăn nuôi thuộc viện Pasteur Ðông Dương.
- 1897: Ðưa cây cao su vào
Ðông Dương và nghiên cứu khai thác.
- 1917: Ðưa cây canh-ki-na
vào Ðông Dương và nghiên cứu việc thuần hóa giống cây này.
Hình Ảnh về Bác sĩ Yersin
Hình chính của Yersin tại bảo tàng viện NhaTrang |
Yersin lúc 60
tuổi tại phòng làm việc Nha Trang |
Yersin đang
làm việc thời mới đến Việt Nam |
Yersin tiếp
khách tại viện Pasteur Nha Trang |
Phòng ngủ và
làm việc của Yersin chưng bày tại viện bảo tàng |
Kính thiên văn
của Yersin được giữ tại viện bảo tàng Nha Trang |
Bảng đường
mang tên Yersin tại Nha Trang |
|
|
updated
10/12/2004 |