Kieu Nu A Chau  

Chuyện Chúng Ḿnh


 
Các Bài Viết Về BXPhái
Frida Kahlo
Tâm Tư Nghệ Thuật
Van Gogh
Viết Dưới Ánh Đèn Dầu
TứThậpTriThiênMệnh
Chữ Dâm

PhiếmLuận Về Thơ HXH

Những KiềuNữ ÁChâu
T́nhYêu Là Cái Đếch Ǵ?
Âm Đạo Độc Thoại
Giấc Mơ Của Bướm
 Tôi Đă Biết
 "T́nh”Trước "Dục” Sau?
 
 
 
 
 
 
 
c

Thái Bá Vân

Khởi điểm của Nghệ Thuật
Năm 1968, ở nơi sơ tán chợ Bún tỉnh Hà Tây, tôi có dịch xong cuốn "Lịch sử Hội hoạ hiện đại" của Herbert Read viết năm 1959, để chuyền tay bạn bè đọc cho vui. V́, thực ra ngày đó, ở miền Bắc Việt Nam không có quyển ǵ mới hơn, và, theo tôi, là đáng tin cậy hơn. ở thế giới, cuốn sách của Read đă được dịch ra nhiều thứ tiếng từ những năm 70.

Đến năm 1991, tạp chí Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật - Bộ Văn Hoá đă giúp tôi công bố được 3 chương, trong đó có chương 1: "Những khởi điểm của nghệ thuật hiện đại".

Nhiều ư nghĩ của Read tôi tán thưởng và lấy làm bài học nghiệp vụ, tuy tôi không quên rằng thời điểm ông viết cuốn sách này là năm 1959.

Trước tiên, tôi xin giới thiệu nhân vật Read và cuốn sách của ông để độc giả nhận xét. Sau đó, là nguyên văn chương "Những khởi điểm của nghệ thuật hiện đại" mà tôi đă dịch.

1.QUYỂN LỊCH SỬ HỘI HOẠ HIỆN ĐẠI VÀ TÁC GIẢ HERBERT

HERBERT READ là người Anh, đă qua đời ngày 12 tháng 6 năm 1968, khi ông 75 tuổi.

Lần cuối cùng ông xuất hiện trước đại chúng văn hóa là ở cuộc Hội nghị Văn hóa thế giới họp ở LaHabana - Cuba, vào tháng giêng năm đó. Người ta c̣n nhắc tới bản tham luận nổi tiếng của ông bấy giờ về chủ nghĩa quốc tế trong nghệ thuật. ở đó, một lần nữa, ông bảo vệ lư tưởng chính nghĩa của xă hội về tự do con người, bao hàm cái hạnh phúc và khả năng dùng nghệ thuật để làm cho sự hiểu biết lẫn nhau trong phạm vi quốc tế trở thành hiện thực.


ư nghĩa về việc giáo dục bằng nghệ thuật của Read là một ư nghĩa có công. Read nh́n vào nền văn minh đương thời mà lo lắng cho thân phận con người, cái thân phận bi thảm qua một sự giáo dục không tương xứng và cân đối với thực tại đang chia xẻ nhân cách nó ra từng mảnh. Ông đưa ra sự giáo dục bằng nghệ thuật làm phương tiện giáo dưỡng toàn diện cho con người, làm phong phú đời sống cảm xúc, vừa mở rộng giao tế xă hội, vừa đẩy mạnh trí tưởng tượng sáng tạo. Theo ông, nghệ thuật là đồng nhất với quá tŕnh tự thể hiện của con người, bởi vậy nó phải trở thành cơ sở cho một sự giáo dục.

Ông không quan niệm nghệ thuật chỉ gồm tác phẩm nghệ thuật, mà nghệ thuật phải là một lối sống. Nền giáo dục này sẽ là một sự giáo dục thường xuyên, thực hiện trong cả đời người. Ông "tin tưởng một cách sâu sắc, rằng cuộc sống không có nghệ thuật là một cuộc sống nghèo khổ và tàn nhẫn".

Bên cạnh đó, ông đả phá văn nghệ thượng lưu được coi là đồ trang sức, hoặc là phần phụ lục của cuộc sống. Bằng nhiều ví dụ rút ra từ lịch sử, Read c̣n vạch ra rằng trong những điều kiện chế độ tư bản đương thời, và đặc biệt là thời điểm cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất, nghệ thuật đă khá xa rời cuộc sống, và đó là sự ly dị giữa văn hóa và lao động. Mai đây, văn hóa sẽ hợp thành một tổng thể cùng với xă hội.

Không phải ngẫu nhiên mà người ta đă có nhận xét, rằng mơ ước đó của Read là gắn với quan niệm dân chủ khởi ở Rousseau, và đồng điệu với Max, khi ông phác thảo ra cái nh́n về con người ngày mai như một người sáng tạo, con người - nghệ sĩ. Một trong những bài viết cuối cùng của ông cho Hội thảo về vấn đề giáo dục trong một thế giới ḥa b́nh, vào năm 1966, lấy tên là "Điều kiện ḥa b́nh", ta có thể đọc: "Con người trước hết là kẻ sáng tạo. Sáng tạo là một cách phủ định hành động phá hoại, đứng về mặt tâm lư học mà nói... Tác phẩm nghệ thuật không phải chỉ là thứ trang trí, nó là biểu hiện của một trong những bản năng sâu kín nhất của con người, cái bản năng dắt dẫn nó đến chỗ mở rộng phạm vi cảm thụ nhạy bén của ḿnh..."

Có thể nói quyển Lịch sử Hội họa hiện đại của Read mà chúng tôi dịch để hiến bạn đọc sau đây được viết theo tinh thần đó. Bản dịch của chúng tôi là theo bản tiếng Pháp Histoire de la peninture moderne của Yves Rivière, nhà xuất bản Aimery - Somogy S. A, Paris 1960. Nội dung gồm:

Lời tựa

Chương I. Những khởi điểm của nghệ thuật hiện đại.

Chương II. Trổ đường.

Chương III.Xu hướng lập thể.

Chương IV. Xu hướng vị lai, Dada, Siêu thực.

Chương V. Picasso, Kandinsky, Klee.

Chương VI. Xu hướng cấu trúc.

Chương VII. Xu hướng trừu tượng biểu hiện.

Lối viết của Read là một lối đặc biệt. Chính ông nói: "Tôi viết theo cách một nhà thơ hơn là nhà khoa học", và đó là lời minh họa tốt nhất cho tác phẩm của ông.

Về nghệ thuật tạo h́nh, Read rất gắn bó với Henry Moore và đương thời, ông hâm mộ nhất là xu hướng cấu trúc và xu hướng siêu thực. Ông cũng đặc biệt đề cao những thực nghiệm của nhóm Bauhaus ở Đức, coi đó là một quá tŕnh thực nghiệm quan trọng nhất trong lĩnh vực giáo dục thẩm mỹ.


2.BẢN DỊCH NGUYÊN VĂN:

Những khởi điểm của nghệ thuật hiện đại


"Nhà lịch sử nào coi sự phát triển của nhận thức khoa học hay triết học là một vấn đề b́nh tục, th́ sẽ nh́n lịch sử nghệ thuật như là một cảnh tượng vừa nặng nề vừa hỗn độn, v́ bởi bản chất của nó, nghệ thuật dường như không bao giờ tiến lên, mà trái lại luôn luôn tụt lùi. Nếu là chuyện khoa học hay triết học, th́ các nhà nghiên cứu trong khi kế tiếp nhau ở cùng một lĩnh vực và trong khi ai cũng cung hiến một công tŕnh trung b́nh, ai cũng đi đến một kết quả, bao giờ một thời kỳ phản ứng cũng là một giải pháp kế tục. Nhưng trong nghệ thuật th́ khi một trường phái đă phát triển hết độ của ḿnh, th́ bao giờ cũng chỉ c̣n suy tàn với thời gian. Nó đạt tới đỉnh cao trong một sự chói sáng tinh lực. nở rộ chớp nhoáng trước con mắt nhà viết sử để anh ta không bao giờ có thể mô tả lại cho chúng ta rằng nó đă được sản sinh như thế nào. Song một khi đă đạt tới đỉnh cao đó rồi, th́ nó chỉ c̣n có điều chắc chắn đáng buồn là sự tàn kỳ nữa mà thôi. Một lần tới đỉnh rồi, th́ trạng thái toàn vẹn vẫn chưa được tạo ra mà cũng chưa sàng lọc được nhận thức thẩm mỹ của những thế hệ tương lai, trái lại, c̣n làm hư hỏng nó. Chẳng thế th́ ta cứ việc trở lại với đồ gốm của đảo Samos hay nền điêu khắc Saxon, với chính kịch của thời Elizabeth hoặc với nền hội họa thành Venise mà xem. Dù trong chừng mực mà lịch sử nghệ thuật nh́n bao quát là tuân thủ theo một quy luật có thể nhận biết đi chăng nữa, th́ đây cũng không phải là theo quy luật của sự tiến triển, mà cũng như cuộc đời của mọi nghệ sĩ khi nh́n riêng từng cá nhân, là theo quy luật của sự phản ứng. Nói chung cũng như nói riêng, thế thăng bằng của đời sống thẩm mỹ, bằng định nghĩa, cũng như nh́n vào tính chất muôn thưở của nó, là một thế thăng bằng bất ổn".

Một trong những nhà triết học hiện đại danh tiếng nhất của lịch sử, mà cũng là một trong những nhà triết học danh tiếng nhất của nghệ thuật đă nói như vậy. Cũng chính nhà triết học đó đă chú giải rằng, lịch sử đương đại chưa thể nào viết nổi, bởi cái lư do đơn giản rằng: chúng ta biết quá nhiều về nó. "Kẻ nào muốn viết bộ lịch sử đương đại th́ sẽ ngượng ngịu với nó, không phải v́ nó chứa đựng quá nhiều tin tức mà c̣n chính bởi những tin tức đó chưa tiêu hóa được là bao, ly dán quá rời rạc, và bởi rằng, chúng chỉ c̣n cái hiện thực nát vụn. Chỉ sau một thời kỳ suy nghĩ lâu dài và chăm chú th́ chúng ta mới bắt đầu phân biệt được cái ǵ là bản chất, cái ǵ là quan trọng, mới thấy được các sự việc đă xảy ra như thế này mà không xảy ra như thế khác, mới thôi không viết những bài nhật báo nữa để mà viết lịch sử".

Tác giả cuốn sách này chính là đang cho rằng ḿnh đă để cả một thời gian lâu dài và chăm chú vào những sự kiện tạo thành lịch sử của phong trào hiện đại trong hội họa và điêu khắc, chứ không hề co rằng đă có thể phát hiện ra một quy luật nhỏ nào đó mà lịch sử mỹ thuật đă tuân theo. Trái lại, cái mâu thuẫn bên trong mà theo Collingwood, là cố hữu của lịch sử, lại không đâu nh́n rơ bằng trong lịch sử hội hoạ hiện đại cả. Về nghệ thuật hiện đại, người ta có thể nói là nó đă bắt đầu bởi một người cha chối từ và truất quyền thừa kế của những đứa con ḿnh, người cha bị đeo đẳng những tai họa và ngộ nhận, mà chỉ c̣n có thể nhận ra ông mạch lạc qua một thứ triết học về nghệ thuật, thứ triết học xác định nó hết sức sáng sủa và hiển nhiên.

Triết học đó xác định nghệ thuật như là một phương tiện quan niệm thế giới bằng thị giác. Có rất nhiều phương tiện để hiểu thế giới: chúng ta có thể sử dụng những giới hạn mà chúng ta ghi chú được nhờ một hệ thống tín hiệu ước định (chữ số hay chữ; chúng ta có thể thiết lập những khẳng định của ḿnh trên thực nghiệm; chúng ta có thể nhờ trí tưởng tượng mà dựng nên những phương thức để giải thích thế giới (các huyền thoại). Nhưng ta chớ nên lẫn lộn nghệ thuật với bất cứ một hoạt động nào như vậy, bởi v́ mỹ thuật là "một vấn đề luôn luôn mới được đặt vào thế giới bởi giác quan nh́n thấy", và nghệ sĩ không phải là ai khác con người sẵn có cái khả năng và ước vọng muốn biến đổi tri giác của con mắt sang một h́nh thái vật chất. Bước thứ nhất của sự vận động đó, thuộc về tri giác, bước thứ hai thuộc về biểu hiện, nhưng trong thực tế th́ không thể tách rời hai bước đó. Người nghệ sĩ biểu hiện cái mà anh tri giác được, và tri giác cái mà anh biểu hiện ra.

Toàn bộ lịch sử mỹ thuật là lịch sử của những cách tri giác bằng con mắt, nghĩa là của những cách con người nh́n thế giới khác nhau. Một người ngây thơ có thể biện bạch rằng, chỉ có một cách nh́n thế giới - cái thế giới vẫn hiện ra trực tiếp trước mắt họ đấy thôi. Nhưng không đúng thế. Chúng ta nh́n thấy cái mà chúng ta biết nh́n, và sự nh́n trở thành một thói quen, một ước lệ, một sự chọn lựa thiên vị trong tất cả những ǵ có để mà nh́n, c̣n th́ là ấn tượng và méo mó đối với những ǵ c̣n lại. Chúng ta thấy cái ta muốn nh́n thấy, và cái ta muốn nh́n thấy th́ không phải là do những quy tắc tất nhiên của quang học (như là trường hợp của những loài dă thú), cũng không phải là do bản năng lưu tồn, mà là do ước muốn phát hiện nay xây dựng một thế giới mà chúng ta có thể tin cậy. Cái ta thấy phải là cái có thực. Chính cũng bởi vậy mà nghệ thuật đă cấu tạo nên hiện thực.

Rơ ràng là ngay từ khởi điểm của cái mà ta gọi là phong trào mỹ thuật hiện đại đă có ư chí quyết định và bướng bỉnh của một họa sĩ người Pháp đ̣i nh́n thấy thế giới một cách khách quan. Không có ǵ là bí ẩn trong câu nói sau này: Cái mà Cézanne muốn nh́n thấy, chính là thế giới, hoặc là cái phần thế giới mà ông đang chiêm nghiệm, như một khách thể, không có sự can thiệp nào của một trật tự trí tuệ hoặc một sự lộn xộn về t́nh cảm cả. Những người đi ngay kề trước ông, là nhóm ấn tượng, đă từng thấy thế giới một cách chủ quan, nghĩa là cái thế giới hiện lên trước giác quan của họ, dưới những sức sáng chói khác nhau, hoặc từ những điểm quan sát khác nhau. Mỗi một giây lát lại mang tới giác quan của họ một ấn tượng khác nhau và phân biệt với mọi ấn tượng khác nhau, và cứ mỗi giây lát như vậy, phải được tương ứng với một tác phẩm nghệ thuật khác nhau. Nhưng Cézanne th́ lại muốn từ chối cái trạng thái hàm hồ và măi măi luôn thay đổi của sự vật, để đạt tới cái hiện thực bất biến, luôn luôn hiện lên dưới h́nh ảnh sáng chói nhưng lừa dối, do chiếc lăng kính của giác quan cung hiến.

Những đầu óc cách mạng lớn là những người được khích lệ bởi một ư tưởng duy nhất và đơn giản, mà cũng chính v́ bướng bỉnh mà họ nhận lấy cái ư tưởng đă trao cho họ sức mạnh kia. Nhưng trước khi chúng vạch lại những thời điểm khác nhau của cuộc đeo đuổi đó, ta hăy tự hỏi, tại sao trong suốt lịch sử lâu dài của nghệ thuật, chưa bao giờ có một nghệ sĩ nghĩ tới việc nh́n thế giới một cách khách quan. Chẳng hạn như, chúng ta biết rằng trong nhiều thời điểm khác nhau của lịch sử nghệ thuật, đă từng có những sự toan tính làm cho nghệ thuật mang tính chất "mô phỏng"; không phải chỉ nghệ thuật Hy Lap và nghệ thuật La Mă, mà cả nghệ thuật Phục Hưng ở giai đoạn cổ điển của nó ở Châu Âu, đều là những thời kỳ mỹ thuật mà trong đó người ta đă t́m cách thể hiện thế giới "đúng như thực". Nhưng giữa bản thân cái nh́n và việc thể hiện cái nh́n đó, vẫn luôn luôn có một hoạt động mà ta không thể dùng một thuật ngữ nào khác là sự diễn giải. Sự can thiệp này tưởng là cần thiết bởi chính bản chất của tri giác, không bao giờ cùng cho giác quan một h́nh ảnh dẹt phẳng, hai chiều, nằm trong những ranh giới chính xác, mà là một tiêu điểm trung tâm giữa một ṿng vật thể được cảm nhận lờ mờ và méo mó ở h́nh dạng bề ngoài. Người nghệ sĩ có thể điều chỉnh cái nh́n của ḿnh vào một vật thể đích xác, chẳng hạn như vào một bóng người, hoặc đơn giản hơn, vào một đầu người. Nhưng ngay ở đây, cũng vẫn c̣n là những vấn đề thuộc hội họa, chẳng hạn như sự thể hiện trọng lượng của vật thể, hay là vị trí của nó trong không gian.

Trước Cézanne, mỗi lần người nghệ sĩ muốn giải quyết những vấn đề đó, th́ anh phải nhớ đến những khả năng xa lạ ngoài cái nh́n, hoặc là sức tưởng tượng, kẻ tạo điều kiện cho anh biến thiên những vật thể của thế giới hữu h́nh, và từ đó mà sáng tạo ra một không gian lư tưởng chứa đựng những h́nh thể lư tưởng; hoặc là trí tuệ, kẻ tạo điều kiện cho anh xây nên một phương thức thể hiện khoa học, một phép viễn cận mà trong đó anh có thể đặt vị trí vật thể rất chính xác. Nhưng một phương thức viễn cận th́ vẫn chưa đem đến một thể hiện chính xác cái mà con mắt trông thấy, giống như xạ ảnh của Mercator không thể hiện một cách chính xác cái thế giới mà Siryus nh́n thấy. Như cái bản đồ, phương thức đó dùng để hướng dẫn cho trí khôn, chứ không cho phép chúng ta hoài nghi một chút nào về hiện thực cả.

Người ta có thể rút ra một điều coi như giáo huấn của lịch sử nghệ thuật, rằng, hiện thực, hiểu theo nghĩa đó, không khác ǵ một bóng ma trơi, mà một cái ǵ đó tồn tại, ta có thể nh́n thấy, nhưng không bao giờ chúng ta có thể nắm bắt được nó cả. Như chúng tôi đă từng nói, thiên nhiên là một việc, và nghệ thuật lại là một việc khác. Nhưng Cézanne rất chân t́nh đối với một thứ "nghệ thuật của các bảo tàng", và mặc dù tỏ ra kính cẩn những cố gắng của tiền nhân ḥng t́m ra một mảnh đất hoà thuận với thiên nhiên, đă không chán nản phải thành công ngay ở chỗ lớp người xưa mắc cạn, nghĩa là phải đạt tới "thực hiện" được những cảm giác của ḿnh trước sự hiện diện của thiên nhiên.
------------

Paul Cézanne sinh tại Aixen Provence, ngày 19 tháng giêng năm 1839; chết ở Aix ngày 22 tháng 10 năm 1906. Phần lớn đời ông nằm trong lịch sử của xu hướng ấn tượng, nhưng chỉ một điều duy nhất ở ông và là điều đă thúc bức ông từ bỏ nhóm ấn tượng, là đáng để chúng ta quan tâm tới ở đây. Năm 1877 là lần cuối cùng ông triển lăm chung với các bạn ấn tượng. Ông vẫn tưởng sẽ c̣n chung với họ năm sau đấy, nhưng cuộc triển lăm này phải lùi lại, và tới năm 1879 th́ Cézanne đă quyết định không dính dáng ǵ tới họ nữa. Ông đă chia sẻ với Camille Pissarro trong một lá thư ngắn, đề ngày mồng một tháng tư năm đó, ông ngỏ ư xin lỗi về "những khó khăn khi đẻ ra bức tranh mà ông đă gửi tới triển lăm". Nhưng mặc dù ông c̣n nhạy cảm hơn các bạn họa sĩ trước phản ứng của công chúng với những cuộc triển lăm của nhóm ấn tượng (ông luôn luôn nuôi cái tham vọng là được công chúng thừa nhận), th́ chúng ta vẫn có thể khẳng định lư do thực sự để ông quyết định việc đó, là ông tự cảm thấy ḿnh càng xa đám ấn tượng. Cho tới cuối đời ông vẫn tôn trọng Monet và Pissarro, nhưng ông càng ngày càng phản tỉnh để luôn đầy những "t́m ṭi" của ḿnh đi xa hơn, và từ nỗ lực đó, vừa tham vọng vừa cô đơn, mà cuộc cách mạng do tác phẩm của ông đại diện đă ra đời.

Về tư chất mà nói, th́ Cézanne không phải là một người cách mạng, và rất khó giải thích tại sao tác phẩm của ông lại đóng một vai tṛ quan trọng như vậy đối với toàn thể tương lai của hội họa. Sự giải thích đó phụ thuộc vào cách hiểu đúng đắn hai thuật ngữ đă được Cézanne luôn luôn sử dụng, đó là sự thể hiện và sự diễn thể. Thể hiện trong nghĩa mà Cézanne dùng, nghĩa là "đẻ ra" mà không thèm nhờ cậy vào một lối tả thực kiểu văn chương hay kinh viện nào. Diễn thể nghĩa là thích dụng một chất liệu nhất định (ở đây là hội họa) đến một cường độ nhất định... (ở đây nói về màu sắc). Phương pháp hội hoạ của Cézanne trước hết là ở chỗ chọn mô típ - một cảnh vật, một con người mà ông định vẽ chân dung, một tĩnh vật - sau đó là biểu đạt tri giác con mắt của ông đối với mô típ, và làm sao cho không mất một tí sức sống nào của mô típ trong hiện thực vật chất của nó.

"Thể hiện" tri giác con mắt đối với mô típ là vấn đề khó khăn thứ nhất, như ta đă có lần đề cập tới, t́m được một trọng điểm hứng thú và một quy tắc cấu trúc là vô cùng khó khăn. Bước thứ nhất để đi tới giải quyết vấn đề đó, là chọn được mô típ thích đáng. Lối ấn tượng, như Monet chẳng hạn, là sẵn sàng t́m thấy đề tài ở khắp nơi - một đống cỏ khô hay một hồ sen dại - vấn đề đó chả có ǵ là quan trọng cả, bởi v́ cái mà Monet quan tâm trước nhất, là hiệu quả của ánh sáng. Điều đó đă dẫn hội họa của ông đến chỗ vắng thiếu những h́nh thể, mà măi tới gần nửa thế kỷ sau, một thế hệ hoạ sĩ mới mới hiểu đầy đủ và sử dụng. Và đấy mới chính là một trong những khuynh hướng ngần dưới chủ nghĩa ấn tượng, mà "tư chất" của Cézanne đă nổi loạn chống lại một cách bản năng. Tư chất của Cézanne căn bản là cổ điển. Ông tán thành sự cấu trúc bằng bất cứ giá nào, nghĩa là ông chủ trương một phong cách bắt nguồn từ bản chất của sự vật chứ không phải là trong những ấn tượng chủ quan luôn luôn là "mơ hồ" của cá nhân. Ông có thứ t́nh cảm sâu sắc đến không bao giờ có thể "thể hiện" cái nh́n của ḿnh ngoài một tổ chức đường nét và màu sắc, cái tổ chức trao cho h́nh tượng tính ổn định và trong sáng, khi đă đặt vào vải vẽ. Những "cảm giác" mà phái ấn tượng đă đi t́m, trước hết là để mô tả những hiệu quả tinh tế của ánh sáng đang thay đổi, hay của những chuyển động không thể nào tri giác được, th́ đối với ông, h́nh như nó hoàn toàn tổn hại cho mục đích chân thực của nghệ thuật, mà lư do tồn tại đích thực là để sáng tạo nên một cái ǵ cũng hoành tráng và cũng vĩnh cửu như là nghệ thuật của những bậc thầy xưa kia. Không phải là Cézanne bắt chước những danh họa tiền bối - họ chỉ đạt tới quy mô đồ sộ bằng cách hy sinh hiện thực, hy sinh sức mạnh của h́nh tượng thị giác. Cái xa vọng của ông là cũng đạt tới hiệu quả hoành tráng như vậy mà vẫn giữ được sức mạnh của h́nh tượng thị giác, và đó là cái mà ông hiểu là "khôi phục lại Poussin trước thiên nhiên". "Vẽ một bức tranh của Poussin sinh động giữa trời, đầy màu sắc và ánh sáng, chứ không phải là một tác phẩm của vị này sáng tác trong xưởng họa, màng màng một màu sắc nâu của ánh sáng yếu ớt ban ngày, không c̣n những ánh hắt của mặt trời nữa".

Cézanne bao giờ cũng đinh ninh một điểm: thụ cảm của con người về nguyên tắc mà nói là "mơ hồ". Trong một lá thư gửi Joachim Gasquet ông đă nói về "những cảm giác mơ hồ, mà chúng ta từng mang theo từ khi lọt ḷng đó". Song, ông tin rằng, cùng với sự tập trung và những "t́m ṭi", người nghệ sĩ sẵn sàng đặt được trật tự trong cái mơ hồ đó, rằng, nghệ thuật, về bản chất mà nói, là cốt được thể hiện, trong giới hạn của những ấn tượng thị giác của chúng ta, một vũ trụ do ta kết cấu nên. Ông nói về nghệ thuật như nói về một lư thuyết phát triển và ứng dụng trong tiếp xúc với thiên nhiên, ông muốn dựng lại thiên nhiên bằng khối viên trụ, khối cầu, khối nón, đặt trong một viễn cận sao cho "mỗi mặt của từng vật thể, ở từng lớp tranh, đều hướng về một trung tâm điểm", mà "qua các bước thể hiện, nó chỉ c̣n cái bản chất và con mắt thuần hóa khi giao tiếp với nó. Khi nh́n và vẽ th́ cái bản chất đó đồng tụ về một điểm tâm. Tôi muốn nói rằng trong một quả cam, một quả táo, một khối cầu nhỏ, một cái đầu người, đều có một điểm tối cao, và điểm đó, mặc dù có hiệu quả ghê gớm của ánh sáng và bóng tối, của sắc cảm - bao giờ cũng gần con mắt ta nhất; các bờ mép của một vật thể đều chạy tới một điểm tâm nằm ở tầm mắt chúng ta".

Người ta có thể nói rằng Cézanne đă phát hiện ra một mâu thuẫn cố hữu trong chính sự vận động của nghệ thuật, cái mâu thuẫn mà người Hy Lạp xưa đă ư thức được khi Platon nói về mimesis, nghĩa là về sự bắt chước. Cézanne mong muốn được tạo h́nh ảnh của cái mà ông nh́n thấy, không một sai lệch nào do cảm xúc hay trí khôn tạo ra, không một sa đà nào về t́nh cảm, cũng không một "diễn xuất" lăng mạn nào; thực tế là không có một ngẫu nhiên nào trong không trung hay trong ánh sáng. Và hơn một lần, Cézanne đă xác định rằng, đối với hoạ sĩ th́ ánh sáng không tồn tại. Nhưng phạm vi của thị cảm lại không có ranh giới chính xác, những yếu tố nằm trong đó, đều hoặc là nằm tự do, hoặc là lẫn lộn vào nhau. Bởi thế mà chúng ta đặt vào đấy một "tiêu điểm", một tâm điểm lợi hại, và chúng ta thử tổ chức thị cảm của ḿnh theo yêu cầu của điểm lựa chọn đó. Thành thử cái mà Cézanne tự gọi là "trừu tượng hoá" là sự mô tả không đầy đủ của giới hạn nhăn trường thực tế nó là một "khối nón", trong đó các vật thể tự sắp đặt quanh tâm điểm với ư chí trật tự và kết hợp. Đó là điểm mà Cézanne muốn nói khi ông bàn đến một "cấu trúc theo tự nhiên". Đó là điểm để ông hiểu về "sự thể hiện" là một mô típ và chính là điểm để ông trở thành "người khởi thuỷ cho một nền nghệ thuật mới".

Giải pháp mà Cézanne đạt được sẽ quá là cấu trúc, quá là h́nh học, nếu chúng ta không đặt tất cả sức mạnh của nó vào một thuật ngữ khác chủ yếu trong từ vựng của ông, đó là sự diễn thể. Các họa sĩ ấn tượng đă thanh lọc màu sắc, họ đă gạt sang một bên "cái chất màu nâu sền sệt", cái sáng - tối giả tạo, để làm cho màu sắc rung lên hết cường độ tự nhiên của ḿnh. Nhưng cái mà họ định sáng tạo, th́ người ta có thể gọi là một thứ "rượu thập cẩm của thị giác", nghĩa là một sự chồng chất kề nhau những màu sắc kết hợp và đẻ ra ngay trong hoạt động của tri giác một ấn tượng về cuộc đời. Cách sử dụng màu sắc của họ là "ấn tượng chủ nghĩa" cũng như cách dùng đường nét của họ. Một họa sĩ như Renoir chẳng hạn đă phải đi đến một lối diễn sắc hoàn toàn khác biệt với cái mà Cézanne hiểu là diễn thể. Diễn thể có nghĩa là điều chỉnh một khu vực màu sắc vào những khu vực màu sắc lân cận, một quá tŕnh không ngừng ḥa hợp cái vô số vào cái đơn nhất của toàn thể. Cézanne phát hiện ra rằng tính vững chắc hay tính hoành tráng của một bức tranh c̣n nằm ở "công việc thờ nề" kiên nhẫn đó, không kém ǵ ở quan niệm kiến trúc toàn thể. Kết quả là, theo quan điểm của hiện thực hội họa, tưởng như phá vỡ mặt phẳng của một mảnh màu, làm nó vỡ nhỏ ra nhưn tấm tranh ghép mảnh gốm với những sắc màu khác nhau. Tiến tŕnh đó ngày càng hiển nhiên lần hồi theo sự tiến hoá của Cézanne; nó là đặc trưng trong một tác phẩm như Vườn cây của Louvre trong sưu tập Phillíp, hay ở những tranh màu nước vẽ vào những năm cuối như Cảnh có cối xay gió, trước thuộc Sưu tập Vollard. Một chi tiết tách rời nào trong bất cứ một tác phẩm nào sau năm 1880 cũng đều có bề mặt cấu trúc như tranh ghép mảnh kiểu đó cả. Song, không được phép quên rằng, cái mà chúng ta tách ra theo thể loại để giải phẫu những lớp khác nhau là hoàn toàn thích hợp vào tác phẩm khi nh́n toàn bộ. Đối với Cézanne, sức biện hộ cho kỹ thuật đó, là ở chỗ nó là một "phương pháp cấu trúc tốt". Cũng như trong toàn bộ nơi công tŕnh kiến trúc đă hoàn thành, chúng ta không thể chỉ tách những yếu tố khác nhau mà, khi nh́n bao quát, chúng đă tạo nên được cái toàn thể.

Trước khi chuyển sang phần ảnh hưởng của Cézanne đối với sự tiến hoá sau này của hội họa, tưởng hết sức cần thiết phải nhắc lại điều lưu ư của Lionello Venturi trong công tŕnh nghiên cứu phê b́nh nói về Cézanne in năm 1936. Ông ghi chú rằng sẽ phạm một sai lầm rất nghiêm trọng, nếu nh́n Cézanne như là người đi đầu tất cả những khuynh hướng đă biểu thị sau ông trong hội họa; nếu coi ông như là hạt giống duy nhất đă khai sinh ra toàn bộ cánh rừng. Và Venturi dẫn Beaudelaire: "Người nghệ sĩ chỉ có thể hứa hẹn với các thời đại sau bằng tác phẩm của ḿnh. Người nghệ sĩ chết đi là tuyệt tự. Khi sống th́ anh có quốc vương của ḿnh". Và, trong ư nghĩ đó, th́ đúng là Cézanne đă chết đi không để lại đứa con nào, đó là một nghệ sĩ đơn độc, đối với ông phong cách chính là bản thân ḿnh; ông không hề lập một trường phái nào cả. Tôi xin phép dẫn Venturi một lần nữa: Điều sai lầm là h́nh như tất cả mọi nhà phê b́nh chuyên về Cézanne đều rơi vào và bị phân hóa bởi ánh sáng của những lá thư cuối cùng của ông, bởi những điều thổ lộ của ông về thiên nhiên, bởi ḷng miệt thị của ông đối với tất cả những ǵ trong nghệ thuật, mà không phải là trực giác riêng, có tính chất cơ bản, ngoài mọi ư tưởng đă tiên tiến về trường phái hay về khoa học... Đă đến lúc chúng ta có thể xác định rằng thế giới tâm linh của Cézanne, cho tới giờ phút cuối cùng của đời ông, không phải là thế giới của nhóm Tượng trưng, hoặc của nhóm Dă thú, cũng không phải là của Lập thể; mà thế giới của ông đă ăn nhập vào thế giới của Flaubert, của Baudelaire, của Zôla, của Manet, Của Pissarro. Thế nghĩa là Cézanne thuộc vào thời kỳ oai hùng của mỹ thuật và của văn học Pháp, khi phải t́m một con đường mới để đi tới chân lư của thiên nhiên bằng cách vượt quá, biến đổi cả đến xu hướng lăng mạn thành nghệ thuật vĩnh cửu. Trong tính cách và trong tác phẩm của Cézanne, không có ǵ là suy thoái, là trừu tượng, cũng không có ǵ là nghệ thuật v́ nghệ thuật, không có ǵ khác ngoài một ư chí tự nhiên không thể nào chế ngự được về sáng tạo nghệ thuật.

Không thể giải thích tốt hơn và đưa một tỉ dụ tốt hơn về cái ước muốn thoát khỏi cái mà Collingwood gọi là sự thăng bằng suốt đời không ổn định của đời sống thẩm mỹ. Tuy nhiên, Venturi vẫn là người đầu tiên đặt vấn đề, rằng lịch sử mỹ thuật hiện đại sẽ không thể quan niệm nổi nếu như không có các tác phẩm và tấm gương của Cézanne, và không có một hoạ sĩ nào khác có bấy nhiêu ư nghĩa đối với lớp kế nghiệp sau này như ông. Đồng ư là không có E'cole de Cézanne, nhưng không một họa sĩ quan trọng nào khác của thế kỷ 20 này đă đặt ra được những ảnh hưởng bởi sắc thái này hay sắc thái khác như là tác phẩm của Cézanne vậy. Những ảnh hưởng đó có khi là sơ thiển - và hơn thế nữa, như trường hợp của phái Lập thể, chúng ta được dựng lên sự giải thích vu vơ về một số đặc điểm trong các tác phẩm của Cézanne. Cái mà Cézanne muốn làm, đó là sáng tạo nên trong nghệ thuật một trật tự tương đồng như cái trật tự vẫn tồn tại trong tự nhiên, độc lập với những ấn tượng vừa cá nhân, vừa hỗn độn. Dĩ nhiên là, một trật tự như thế dần dà sẽ có một cuộc đời và một lôgích riêng mà những ấn tượng mập mờ của nghệ sĩ có thể tinh đọng trong một trật tự mạch lạc và trong trẻo. Đây là sự giải phóng mà các nghệ sĩ sáng tạo trên toàn thế giới hằng chờ đợi; chúng ta sẽ thấy giải phóng đó đă đưa tới bao nhiêu trường hợp lệch hướng so với chủ ư của Cézanne, và tới bao nhiêu chiều kích mới trong kinh nghiệm thẩm mỹ mà nó dẫn dắt.

Dự ư anh dũng của Cézanne ḥng vượt quá xu hướng lăng mạn (không nhất thiết phải hiểu là: Chọn một môi trường đối lập với nó) đă từng đi ngược lại một số xu hướng phổ biến nhất của thời đại. Những xu hướng đó, đến cuối thế kỷ XIX có cái tên là Jugendstil ở Đức, Art Nouveau ở Pháp, và Modern Style ở Anh và Mỹ. Đó là một lối trau chốt phong cách hơn là một phong cách, và nó đă biểu hiện nhiều nhất trong mỹ thuật ứng dụng - trang trí nội thất và kiến trúc, tranh typô và đồ họa. Tuy nhiên người ta có thể gặp lại phong cách này, ít ra là ở mặt ngoài, trong những tác phẩm của nhiều họa sĩ mà ta cần đề cập tới, trong số những vị tiền thân của phong trào hiện đại. Gauguin, Van Gogh, Munch, Seurat và Toulouse - Lautrec đều đă làm việc và sáng tạo những tác phẩm tiêu biểu của ḿnh vào những năm từ 1880 đến 1900, và mặc dù họ khác biệt nhau, họ vẫn mang một yếu tố chung, cùng chia sẻ một cách vô ư thức. Chính yếu tố đó, là cái mà Cézanne đă cương quyết loại trừ: đó là yếu tố trang trí. Có lần Cézanne đă nói với giọng khinh bỉ về Gauguin rằng ông này chỉ là "Một chàng thợ vẽ những bức tranh tàu", và những chữ đó ám chỉ sự phủ nhận xu hướng Tượng trưng nguỵ tạo, mà, dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác, là đặc trưng của nền hội họa Âu Châu trong 20 năm cuối cùng của thế kỷ XIX. Người ta có thể nói một cách dễ dàng rằng Gauguin hay Munch là những hoạ sĩ tượng trưng, nhưng cả Van Gogh lẫn Toulouse Lautrac đều không phải là thợ vẽ những h́nh ảnh tượng trưng làm cho Cézanne kinh tởm. Tuy nhiên có một yếu tố chung giữa hai họa sĩ đó với Munch và Gauguin.

Ở đây, chúng ta bàn tới một trong những sự kiện thị giác và kỹ thuật, là những điểm duy nhất làm cho lịch sử mỹ thuật dễ hiểu. Trong trường hợp này, chúng xuất phát từ hai nguồn khác biệt và bất thần - đó là Nhật Bản và nước Anh.Một ảnh hưởng từ nước Anh mà đến, biểu hiện nhất trong kiến trúc và trong mỹ thuật ứng dụng lan tràn không kém ở Âu Châu từ 1890, đă trà trộn ảnh hưởng phong cách vào những ǵ đang được thao dượt trong hội họa và điêu khắc. Đó là một tư trào do William Morris (1834-1896) lập ra khoảng 1870, ngoài đồ đạc bày biện trong nhà, thảm dệt, giấy in hoa văn để dán tường, sách có minh họa sản xuất dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Morris, c̣n lại được đại diện bởi kiến trúc của Charles Rennie Macintosh (1868-1928) ở Ecosse và của Charles Voysey (1857-1941) ở Anh. Sự truyền bá ảnh hưởng của tư trào này, thông qua tạp chí mỹ thuật The Studio, chưa bao giờ được nghiên cứu tỉ mỉ, nhưng người ta có thể xác định rằng nó có tính chất quốc tế. Không những ta chỉ gặp nó trong kiến trúc ở Bỉ (Van de Velde) ở Hoà Lan (J. J. Poud), ở áo (Adolf Loos), ở Đức (Peter Behrens), ở Pháp (Auguste Perret) và ở Mỹ (Frank Lloyd Wright), mà cả trong nghệ thuật đồ họa và nghệ thuật trang trí trên toàn thế giới. ảnh hưởng nào th́ cũng đều thay đổi khi nó lan rộng phiêu lăng và tiếp xúc với những h́nh ảnh khác, nhưng có điều chắc chắn rằng yếu tố chung quanh của những kiến trúc sư và họa sĩ trang trí trên đây đều có mặt trong tranh của Edvard Munch, của Ferdinand Holder, của Puvis de Chavannes, của Toulouse Lautrec và nhiều người nữa. Không có ǵ là quá ngông tưởng hay quá trân trọng khi cho rằng một số yếu tố trang trí nào đó trong tác phẩm của Gauguin và của Van Gogh, và dĩ nhiên trong cả những tác phẩm cuối cùng của Vuillard và của cả Bonard nữa, điều đó có thể xuất phát từ trong cách này một cách vô ư thức.

Van Gogh đă từng sống ở Anh từ 1873 đến 1875; rồi năm 1876 lại trở sang đấy, và nếu như c̣n quá sớm để có thể biết được những hoạt động của Morris, th́ ông đă từng làm việc cho một người sưu tầm đồ cổ theo thời thượng (Goupil) và nhất định là ông phải thu nhận được cái tinh thần mới đang thức dậy quanh ḿnh (mặc dù rằng chỉ có Millais và Seymour Haden là hai họa sĩ đương đại người Anh đă được ông đề cập tới trong những lá thư gửi từ Anh về nước). Camille Pissarro và Monet sang tỵ nạn ở Anh vào 1870, và đến 1883 th́ cậu con trai của Pissarro là Licien sang hẳn, nước Anh và lập tờ báo Eragny Press với Morris, cũng như với các hoạ sĩ như Charles Ricketts, Charles Shannon và cả Whistler nữa, và như thư từ đi lại của hai bố con Pissarro đă nói rơ ḷng sốt sắng của họ đối với sự đổi mới trong mỹ thuật ứng dụng ở Anh. Một lần nữa, cần phải nhận thức sự thật rằng những ảnh hưởng loại đó, ngày càng lan tràn, mà thường khi ta không nhận ra kịp nó trong thời kỳ 20, 30 năm th́ không thể theo dơi nó chi tiết được. Sau đó, t́m cách vạch lại một lịch sử chi tiết th́ chỉ làm méo mó sự thật lịch sử đi. Nó vốn là sự xâm nhập của những ảnh hưởng nhỏ nhặt và luôn khác biệt nhau được hấp thụ từ khi nó rơi vào mảnh đất khô cằn, c̣n chừng nào chúng mang tính chất trực tiếp và hiển nhiên hơn, th́ ư nghĩa lại giảm sút đi.

Đối với những ai theo các nguồn phát triển khác nhau về phong cách ở thời kỳ này, th́ sự việc đă phần khác đi. Nghệ thuật Nhật Bản chỉ truyền đến Châu Âu có một trong những yếu tố kỹ thuật mới trên đây, mà xem qua tưởng chừng như hoàn toàn vô nghĩa, nhưng thật ra nó có tầm quan trọng quyết định và biến tính ḍng mỹ thuật. Cùng với thời đầu mở thương giao với Nhật, vào giữa thế kỷ 19, những "của lạ" Nhật Bản bắt đầu tràn ngập thị trường Châu Âu, và trong đó tranh khắc đă lập tức thu hút mọi người bởi phẩm chất mỹ thuật của chúng. Rất nhiều họa sĩ Pháp háo hức sưu tập tác phẩm của Hôkuxai và của Utamarô, và ảnh hưởng của các danh họa Nhật Bản đó là biểu hiện hết sức nhanh trong tác phẩm của nhiều họa sĩ ấn tượng. Ta thấy một tranh khắc Nhật Bản ở lớp sau bức Chân dung Zôla của Manet (1868); một tranh nữa trong Cha Tanguy của Van Gogh (1886-1888), lại một chiếc nữa trong Tự họa khi tai quấn băng (1889) hiện là tài sản của Viện Courtauld; chúng ta c̣n một tỷ dụ nữa là bức Tĩnh vật có tranh khắc Nhật Bản của Gauguin (1889). Nhưng đó mới chỉ là những chứng cớ thô sơ về tính chất phổ cập của tranh khắc Nhật Bản mà thôi; c̣n ảnh hưởng thực sự của nó th́ ở những thay đổi hiện dần trong phong cách của các hoạ sĩ Pháp - đó là cách sử dụng các đường lượn để đóng khung cách mảng màu dẹt không diễn khối nổi, là sự bỏ lờ phép thấu thị ba chiều, và một quan niệm về tượng ư, tượng trưng, quan niệm của những chiếc gia huy.

Mặc dù khá nhiều hoạ sĩ ấn tượng, chả ít th́ nhiều, chịu ảnh hưởng của tranh khắc Nhật Bản, nhưng dấu ấn đậm nét nhất về nghệ thuật đó chỉ thực sự rơ rệt trong tác phẩm của Van Gogh và Gauguin mà thôi, hai ông này rắp tâm sáng tạo một h́nh thái mỹ thuật tương đồng với tranh khắc Nhật Bản, nhưng là trong điều kiện của hội họa màu dầu. Thực ra có một hoạ sĩ là Whistler đă từng bắt trước cấu trúc và bố cục của tranh khắc Nhật Bản; tuy nhiên khi thêm vào đấy một không trung ấn tượng chủ nghĩa mà ông có thể vay mượn trong hội họa Trung Hoa, th́ về bản chất mà nói, ông cũng không khác biệt với phong cách của Monet hay của Degas. Nhưng từ khoảng 1886, Van Gogh chép tranh khắc Nhật Bản, không phải là khắc trên gỗ mà dùng hội hoạ màu dầu, th́ ông định đưa vào cái chất liệu đă thông dụng ở Châu Âu những tính năng thẩm mỹ của phong cách Nhật Bản. Ông đă từng sử dụng cả bút lông phương Đông trong những h́nh hoạ vẽ bằng mực, theo kỹ thuật của người Nhật. Nhưng đối tượng chủ yếu của ông là tái sinh bằng màu dầu sức biểu hiện mạnh mẽ của những mảng màu nguyên và phẳng như ông đă nói về bức tranh Căn pḥng của họa sĩ (1888 Đấy đơn thuần là pḥng ngủ của tôi, ở đấy màu sắc giữ trọng trách, và trong khi đơn giản hóa th́ nó tạo ra một phong cách c̣n lớn hơn cho mọi vật, nó ám thị được cho sự nghỉ ngơi hay cho một giấc ngủ nói chung... Các bóng khối và bóng ngả đều bị tước bỏ, đó là vẽ màu phẳng và rơ ràng như tấm nhiễu. Chúng ta cần ghi nhận ở đây, và c̣n trở lại sau này nữa, đó là vai tṛ biểu thị mà Van Gogh đă kế thừa đặc trưng của mỹ thuật Nhật Bản.

Gauguin cũng kế thừa điểm đó, cũng như nhiều điểm khác nữa trong nghệ thuật phương Đông, nhưng với mục đích hơi khác. Ông cũng đă từng thưởng ngoạn, không kém ǵ Van Gogh, cái giá trị biểu thị của những mảng màu nguyên rộng răi. Nhưng Gauguin lại c̣n nghiên cứu cả nghệ thuật Trung cổ (điêu khắc, thảm dệt và tranh ghép kính màu), những bản khắc gỗ của gỗ nghệ thuật nguyên thuỷ và một số h́nh thức nghệ thuật lạ mắt của ông đă gặp ở triển lăm quốc tế năm 1889, và ông hiểu rằng màu sắc có thể sử dụng một cách tượng trưng hơn là biểu hiện. Đó là một trong những chủ thể được đưa ra tranh luận say sưa nhất trong nhóm họa sĩ thường tụ tập ở quán ăn của bà Marie - Jeanne Gloanec ở Pont Aven và quán ăn của bà Marie Henry ở Pouldu vùng Bretagne. Nhóm này gồm Plaul Sérusiar và Emile Bernard, hai hoạ sĩ bận tâm quá nhiều về lư thuyết cũng như thực hành mỹ thuật. Nhiều hoạ sĩ khác cũng kết tụ với họ: Emile Schuffenecker, Louis Anquetn và Meyer de Haan. Gauguin đă làm chủ nhóm này bởi cá tính mạnh mẽ, bởi năng lực truyền thụ không mệt mỏi, bởi đầu óc thông minh của ông, nhưng bản thân phong cách của nhóm mà họ tự gọi là Synthétesme - Tổng hợp - th́ về căn bản, lại không phải là phong cách của Gauguin. Ông chịu quá nhiều những ảnh hưởng ta vừa dẫn ở trên, và những ảnh hưởng này không chỉ biểu lộ trong nhóm họa sĩ ở Pont Aven mà cả nhiều họa sĩ rải rác khắp Châu Âu nữa. Chỉ cần so sánh các tác phẩm của Gauguin và những người trong nhóm với những tác phẩm khác được sản sinh cùng một thời kỳ, độc lập với nhóm này, ở Pháp (Seurat, Puvis de Chavannes, Toulouse - Lautrec) và ở nước ngoài (Munch ở Na Uy, Hloder ở Thuỵ Sỹ là thức nhận ngay được sự tồn tại, trong thời kỳ đó một xu hướng kiểu cách quốc tế mà gốc gác của nó nằm trong sự thay đổi thái độ tinh thần của các hoạ sĩ. Ngày nay, 70 năm sau, chúng ta có thể nhận ra một ư chí mới mẻ về trừu tượng đă xuất hiện trong nghệ thuật châu Âu bấy giờ, và nếu ta gác lại việc phân tích hiện tượng đó vào một chương khác, th́ ngay bây giờ chúng ta vẫn có thể ghi nhận rằng, biết bao mảnh rời rạc của nó đă biểu thị lần đầu ở đây. Sức thu hút của tranh khắc gỗ Nhật Bản đối với nhóm ấn tượng, sức thu hút của nghệ thuật nguyên thuỷ đối với Gauguin và nhóm Tổng hợp, ư chí của Seurat đem một cấu trúc h́nh học vào kỹ thuật vẽ bằng điểm màu (pointilliste), sự phụ thuộc cái nh́n hiện thực vào một nhịp lượng ở Munch... Trường hợp nào cũng có sự t́m ṭi một cái nh́n mỹ thuật mới, và cái nh́n đó phải cao hơn cái thực, phải là một nguyên mẫu về h́nh thức, mà trong đó, tinh thần của con người từ bỏ di sản vẫn có thể t́m thấy trạng thái ổn định và nghỉ ngơi, nghệ thuật đă mất hết mọi chứng thực thần linh bởi sự phụng thờ Thượng đế, (v́ Thượng đế đă chết rồi), chứng thực con người bởi sự phục vụ cộng đồng (v́ con người đă bỏ hết xiềng xích). Trong chừng mực có thể biểu đạt bằng giới hạn triết học, (cả Van Gogh Gauguin đều có khả năng đó ở một tŕnh độ rất cao như hai ông đă chứng tỏ trong thư tín của ḿnh) th́ thế hệ hoạ sĩ này đă hoàn toàn ư thức được cuộc giao tranh với cái mà ngày nay chúng ta gọi là sự lưỡng nan của tồn tại. Cézanne th́ bất lực trong việc tự biểu đạt trong từ ngữ siêu h́nh đó, tuy thế chính ông có ư thức về cái mà ông phải làm, hơn bất cứ một họa sĩ đương thời nào khác. Gauguin hiểu được tính chất trọng đại của công việc Cézanne đương làm, và tuy ông từ chối những phương tiện kỹ thuật mà Cézanne sử dụng, nhưng cứ bắt đầu vẽ một bức tranh mới, th́ ông lại nói: "Ta vẽ một bức tranh như Cézanne nào!".

Ta có thể t́m chỉ dẫn rơ ràng nhất cho phương hướng của mỹ thuật thế kỷ 20 này, trong sự nghiệp chưa hoàn thành của một tài năng chết quá yểu, đó là Georges Seurat (1859-1891). Ông sinh sau Cézanne 20 năm, và nếu như ông được sống lâu bằng Cézanne th́ ông đă được biết thời kỳ hội họa lập thể, là bởi ông sẽ chết măi vào năm 1926. Người ta có thể gọi ông là Piero della Francesca của phong trào hiện đại. Seurat có ư thức hơn Cézanne, quả quyết và thông minh hơn bất cứ một người nào đương thời, ông tiếp nhận được trạng thái tinh thần khoa học của thời đại và biểu thị được chính xác lư tưởng của ḿnh về khách thể. Từ khi c̣n là sinh viên trường Mỹ thuật, ông đă đọc những khảo luận khoa học về quang học và về màu sắc, nhất là những công tŕnh của EUgène Chevreul về sự phản quang thành những màu cơ bản. Dựa trên lư thuyết đó, Seurat đă tinh luyện - khó ḷng mà nói rằng ông đă phát hiện ra- kỹ thuật mà sau này được mọi người biết tới dưới cái tên là Pointillisme - lối vẽ bằng điểm màu - mặc dù rằng Seurat thích gọi nó là Divisionnisme hơn - Lối vẽ chia nhỏ mặt màu - kỹ thuật đó tách rời các nguyên thành tố vốn tạo thành những màu sắc trong thiên nhiên, và rời chuyển chúng lên mặt tranh ở trạng thái thuần khiết và sơ đẳng, dưới h́nh thức từng gạch ngắn hay những vệt bút lông nhỏ, c̣n trách nhiệm tổ hợp các màu sắc đó thành một "hỗn hợp quang học" th́ ông nhường cho vơng mạc người xem. Mục đích cuối cùng, dĩ nhiên là để bảo tồn những màu sắc của thiên nhiên trong sự thật và sức tươi tắn toàn diện của chúng, đó là cái ḱ vọng xa xưa của Constable và Delacroix. Nếu như Seurat chỉ dừng lại ở những t́m ṭi về màu sắc, th́ ông không bỏ xa các bạn ấn tượng của ông là bao (nhất là Pissarro và Signac). Nhưng t́m ṭi của ông c̣n tiếp tục về đường nét, và ở mặt khái quát hơn, là về cơ sở khoa học của sự hài ḥa thẩm mỹ. Ông tự hỏi rằng, nếu như bởi thực nghiệm nghệ thuật mà tôi có khả năng t́m ra quy luật màu sắc trong hội họa một cách khoa học, th́ cớ sao tôi lại không có thể phát hiện ra một pháp thức vừa lôgích, vừa khoa học, lại vừa hội hoạ để điều hợp một cách hài hoà đường nét trong tranh, giống như tôi điều hợp màu sắc của chúng vậy?. Vào năm 1886, ông làm quen với một bác học trẻ là Charles Henry, người đă trả lời được câu hỏi đó và cả những câu hỏi khác. Charles Henry, một nhà toán học cực kỳ xuất chúng và phát sinh khác b́nh thường, h́nh như đă từng nuôi cái xa vọng là điều ḥa khoa học và nghệ thuật trong một thứ tổng hợp trí tuệ cao hơn, cái mà Paul Valéry, người có biết ông, đă gọi là "một hệ hợp nhất của cảm thụ tính và của hoạt động con người". Các cuộc tranh luận nảy sinh từ các cuộc gặp gỡ đó kéo dài rất lâu và rất nghiêm túc, bởi v́ có các họa sĩ khá tài trí, nhất là Pissarro dẫn đầu đă biện giải rằng, chính nền móng thuần tuư trực giác là vấn đề cho tới ngày nay c̣n nan giải, nhưng bản thân Seurat - mà đây mới đúng là bằng chứng về tầm thước lớn lao của ông - th́ không bỏ lỡ cái nền móng cựu truyền đó, và sự nghiệp dang dở của ông không hề giải quyết vấn đề đặt ra đó. Đáng phàn nàn là một trong những phương thức mà Seurat sử dụng - lối vẽ bằng điểm màu hay lối chia nhỏ mặt màu - đă làm lạc hướng cái mục đích cuối cùng mà ông đưa ra là mộtthứ "nghệ thuật của sự hài ḥa". Hài ḥa có thể rút lại thành những yếu tố của sắc độ, của màu và của đường nét, nhưng ông đă nói trong quyển "Thẩm mỹ" danh tiếng của ông, và những hài hoà có thể diễn đạt những t́nh cảm vui, thầm lặng hay sầu năo. Các phương thức phải là đối tượng của các phép tính nhưng hiệu quả th́ là hằng hà sa số, bởi v́ chúng diễn ra trên cánh quạt vô cùng của cảm thụ tính con người. Nếu đó cũng là trường hợp Van Gogh khi thừa kế những mảng màu nguyên vẽ phẳng cùng với những đặc trưng khác của tranh khắc Nhật Bản, th́ chức năng biểu cảm của tác phẩm nghệ thuật đă được thừa nhận và đề pḥng.

Hai mươi năm sau cái chết non yếu của ông, giữa một thời điểm quyết định của sự tiến triển của nghệ thuật hiện đại, Seurat đă tác động một ảnh hưởng quyết định vào Pissaro Braque và Gris. Đối với một người cùng thời có ḷng ưu ái ông là Camille Pissarro, th́ lối vẽ chấm điểm đă chết ngay sau khi Seurat từ trần - và ông Pissarro thông minh c̣n nói thêm rằng "nhưng tôi cho rằng Seurat đă khai sinh ra những hiệu quả khác mà sau này có một tầm quan trọng lớn lao trong mỹ thuật. Seurat đă thực sự đem lại một cái ǵ". "Cái ǵ" đó không phải là lối vẽ chấm điểm, mà Pissarro đă tiếp nhận nó một cách quả quyết, cũng không phải là ư tưởng rằng mỹ học phải đặt nền móng trên khoa học, mà là sự thức nhận những vấn đề nội tại của bản thân tiến tŕnh nghệ thuật, những vấn đề chỉ có thể giải quyết được bằng sự biến đổi tận gốc ư nghĩa của nghệ thuật với tư cách là sự nhận thức thế giới. Ngôn ngữ xưa cũ của nghệ thuật không c̣n thích ứng với ư thức con người nữa: một ngôn ngữ mới phải được sáng tạo nên, từng vần một, từng h́nh ảnh một, trước nhất là để cho nghệ thuật c̣n có thể, một lần nữa, là sự tất yếu của xă hội cũng như tất yếu của từng cá nhân.
------------
Hai lần thay đổi mô h́nh thẩm mỹ
Với ư định tự sắp xếp lấy mỹ thuật Việt, về mặt thẩm mỹ, theo một cách nào đấy, để có thể dễ học tập và nghiên cứu hơn, mười năm trước tôi có viết thử một bài, sau đăng trên tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật, mà nhận định rằng mỹ thuật Lư là cổ điển, rồi từ định h́nh ấy, cố nh́n cái ǵ đă xảy ra trước Lư, và cái ǵ sẽ đến sau. Viết đến đây, tôi dừng lại. Phần th́ biết ḿnh c̣n kém, kiến thức rời rạc, phần th́ có vẻ ngợp trước những khoa nghiên cứu mới mẻ trên thế giới, phần nữa th́ có ư chờ đợi những phát kiến của đồng nghiệp trong nước để được chỉ bảo thêm.

Nhưng tôi không thay đổi ư kiến.

Bài viết này là để bước thêm một bước, tự giải quyết một nấc nữa, về thẩm mỹ tạo h́nh Việt Nam. Chắc lần này bất quá tôi cũng chỉ vỡ vạc được cho ḿnh một lối đi riêng, nho nhỏ, trên đường nghiên cứu mỹ thuật dân tộc mà thôi.

Lịch sử mỹ thuật Việt Nam, cho tới nay, theo ư tôi, đă có hai lần thay đổi mô h́nh thẩm mỹ.

Có lẽ tôi phải nói ngay ở đây: 1) Tôi hiểu thế nào là một mô h́nh thẩm mỹ; và 2) Tôi hiểu thế nào là một lần thay đổi.

Mô h́nh thẩm mỹ là mẫu số chung của ứng xử tạo h́nh, được gói ghém và bộc lộ ở dạng biểu trưng; là cái nh́n thế giới của một thời đại, một dân tộc, một trường phái, thậm chí một tác giả nghệ thuật được xây dựng trên toàn cục dữ kiện của đời sống vật chất và tinh thần.

Cái nh́n đó để lại những dấu vết vật thể trên một tác phẩm, qua nhiều mạng lưới viễn cận khác nhau. Những dấu vết này là bằng chứng của sự vật diễn ra trước mắt chúng ta như thế nào đó. Và gốc rễ của các loại viễn cận ở trong cách ứng xử nhân văn và xă hội trước đối tượng chứ không phải cái nh́n máy móc của con mắt, như một công cụ vật lư học. Mỗi dân tộc, mỗi thời đại, cùng kỳ lư nữa là mỗi người, nh́n sự vật qua một mạng lưới viễn cận riêng. Và dưới con mắt của chúng ta, đặc biệt là con mắt nghệ sĩ, cái thế giới nh́n thấy, sờ mó, đo đếm được, cả trên tác phẩm lẫn trong cuộc sống, bao giờ cũng chỉ là đại biểu tượng trưng cho một thế giới c̣n phong phú, phân tán và phức tạp hơn rất nhiều, ẩn giấu ở trong ḷng con người và xă hội. Phải t́m cho được độ tin cậy của những ngắn/ dài, to/ nhỏ, trước/ sau, của cái được vẽ trên tranh và đục vào tượng, trong những lư do và ư nghĩa của con người - xă hội kia.

Panôpxki đă tŕnh bày được, như một đóng góp lớn lao, rằng "lịch sử của lư thuyết về tỷ lệ thân người là tấm gương của lịch sử phong cách".

Tôi đă một lần tŕnh bày phép viễn cận mỹ thuật đặc biệt của những phường thợ tạc điêu khắc đ́nh làng ở đồng bằng Bắc Bộ từ con mắt nh́n vào cuộc đời mà họ sống, làm chứng, và ước mơ, nghĩa là từ một viễn cận dân chủ, đ̣i đổi thay mọi đẳng cấp và trật tự phong kiến mà họ phải chịu đựng thời bấy giờ.

Vậy là, khi con người trong phối cảnh xă hội được thay đổi, th́ nó sẽ nh́n thế giới bằng con mắt khác, và, từ nội dung đó, một phối cảnh khác cũng ra đời trên tác phẩm. Một phép viễn cận khác sinh ra để chứa đựng một biệt hiệu mỹ thuật mới.

Sự thay đổi ở đây phải được hiểu trong nghĩa chuyển tiếp của tinh thần biện chứng. Chuyển và tiếp. Nói rơ như vậy là bởi trong nghệ thuật không có chuyện cái này xoá sạch cái kia, như người ta có thể xóa mất tích một băng ghi âm để ghi chồng lên đầy những âm thanh khác. Trái lại, những kỷ niệm tạo h́nh bao giờ cũng như c̣n quanh quẩn, lảng vảng trên khuôn mặt của h́nh dáng, đường nét, mầu sắc của một tác phẩm mới.

Nhưng, đồng thời, nếu không đạt tới sự thay đổi, mà là thay đổi hẳn, th́ không bao giờ thành một thời kỳ nghệ thuật. T́m tỷ dụ trong lịch sử mỹ thuật nhiều lắm. Mới và khác vẫn là những chỉ tiêu phải có, để một nền nghệ thuật ra đời. Và ta hiểu rằng đó là thay đổi từ nội dung, từ chất.

Tóm lại, mô h́nh thẩm mỹ là một đối xứng của một lối sống, ở nghĩa rộng, tại một toạ độ lịch sử - xă hội nhất định.

Và như vậy, th́ mỹ thuật Việt Nam, như tôi hiểu, đă xây dựng, có thể nói đến độ hoàn chỉnh, ba mô h́nh: Đông Sơn, Lư và Hiện đại.

Nghĩa là nó đă qua hai lần thay đổi:

- Lần thứ nhất: Từ mô h́nh Đông Sơn sang mô h́nh Lư; và lần thứ 2: từ mô h́nh Lư sang mô h́nh hiện đại.

Mô h́nh Đông Sơn là h́nh học. Thứ h́nh học này theo sát tự nhiên.

Năng lực nguyên thuỷ của tri thức h́nh học vốn được phát hiện và phát huy mạnh mẽ ở các nền văn minh nông nghiệp. Ruộng đất được chia thành từng miếng, lắp đi lắp lại, đẻ ra khái niệm giới hạn của đường viền. Có lẽ phép đạc điền đă là gợi ư, từ những diện tích đất cho lối trang trí đóng khung, kẻ ô. Hệ thống đê điều có thể là những đường lượn song song đầu tiên rơ rệt. Chữ h́nh học trong tiếng Hy Lạp là Geometrein, mà nghĩa đen là kích thước của miếng đất. Và nhiều nhà tâm lư học mỹ thuật cho rằng, khi cái lưỡi cày xới một đường cày trên ruộng th́ đồng thời cũng đẻ ra khái niệm ranh giới trong đầu óc nông dân. Thuế má, sự trao đổi nông phẩm th́ mở ra cái tri thức so sánh; đo đếm đă đi đến ư thức về tỷ lệ. Và để ư đến ngày đêm, chu kỳ bốn mùa xuân, hạ, nắng, mưa th́ người nông nghiệp nguyên thuỷ hiểu được cái ǵ là đối xứng, tương phản, đồng thời với cảm quan về nhịp điệu.

Tất cả cái hằng ngày nông nghiệp đó được tập dượt, để những kư ức cảm giác sẽ hằn vết lên liên tưởng mỹ thuật. Có điều, nếu suy nghĩ bằng chi tiết, th́ ta có quyền nêu câu hỏi: v́ sao trong nghệ thuật Đông Sơn không có h́nh ảnh cây cối, mà cái cây ta chờ đợi hơn cả là cây lúa? Đó là điều có khác với nghệ thuật của nhiều nền văn minh nông nghiệp khác, như Ai Cập hay Lưỡng Hà.

H́nh học là một bàn thắng của trí tuệ con người. Cái trật tự hóa của đầu óc con người đă đưa nó ra khỏi và đứng trên cái hỗn mang của tự nhiên. Người Đông Sơn và xă hội Đông Sơn, qua mô h́nh của nó, là ở tŕnh độ đó.

Vạch một đường viền cho vật thể được nh́n thấy là sự nỗ lực nhiều mặt để phân biệt những giới hạn phức tạp, chuyển động, có khi là trừu tượng trong không gian mênh mông 5. Người Đông Sơn đă hoàn thiện nỗ lực đó trên những đồ h́nh mặt trời, hươu, chim và các hoạt cảnh của trống đồng. Đầu óc h́nh học hoàn chỉnh, minh mẫn, ổn định, như mô h́nh Đông Sơn có thể sánh ngang giai đoạn h́nh học của nghệ thuật gốm Hy Lạp (những thế kỷ IX và VIII trước công lịch). Nó không thể là của một xă hội thấp và hỗn mang, về đời sống tôn giáo cũng như về thiết chế.

Nhịp nhàng, cân xứng đến trong sáng và thuần khiết là hai mỹ cảm lạc quan, rất rơ trên thứ h́nh học Đông Sơn bám sát tự nhiên, h́nh học hóa tự nhiên một cách phân minh và khúc triết. Từ h́nh dáng đến trang trí, mô h́nh Đông Sơn phải được kể là một thành cựu cao về tư duy h́nh tượng của thiên niên kỷ I Việt Nam trước công lịch.

Nhịp nhàng, cân xứng cũng là hai chỉ tiêu nền tảng sau này vẫn nằm trong mẫu số chung của thẩm mỹ Việt Nam.

Nói vậy, ta vẫn không quên những tiếp biến văn hóa chắc chắn đă có, ở mức độ nhất định, trong tầm không gian và thời gian bấy giờ. Có điều là, về bản chất thẩm mỹ, nó khác hẳn thứ h́nh học phi lư, khúc mắc như thách đố, trên những thao thiết hay hoa văn khác của đồ đồng Thương, Chu, bản thông báo về cái thái độ triết lư tuyệt đối và kỳ dị của người Tàu xưa.

Nó cũng không đi vào những tưởng tượng hùng tráng trong tinh thần dă thú, như nghệ thuật đồng hoang của các du mục Âu-á, kéo dài một vệt từ Mông Cổ sang Rumani, tạo nên cái vạch nối giữa Trung Hoa và Iran, cũng như giữa Iran và văn minh Địa Trung Hải.

Nó c̣n cho phép ta tin rằng nó được thừa hưởng một quá tŕnh thử thách lâu dài và sáng sủa của thời sơ sử ngay trên bản địa, mà đồ gốm Phùng Nguyên, Đồng Đậu, G̣ Mun c̣n đầy chứng tích.

Mô h́nh Đông Sơn đă phải giải thể với cuộc Hán hóa kéo dài, cùng sự lăn chuyển toàn cục của xă hội Việt Nam vào một quỹ đạo khác.

Nhưng nó không mất tích, như nhiều người tưởng, dù cho những dấu chân Đông Sơn - Chàm và sự rẽ lối Đông Sơn - dân gian, chẳng hạn, chưa được đặt vào một chương tŕnh nghiên cứu có quy mô và hệ thống. Ta có quyền chờ đợi.

Mô h́nh Lư là tượng trưng.

Lịch sử cho biết khá rơ khung cảnh xă hội, để ta có quyền nghĩ rằng, bước vào nền văn minh Đại Việt, người Việt đă hoàn toàn trở thành một con người mới. Nó sống với một quan niệm hoàn toàn khác về vũ trụ và nhân sinh, mà đạo Phật là cái trục tinh thần.

Cái trục tinh thần này, qua nhiều thế kỷ chuẩn bị để tiêu hóa những tiếp biến, nay đă gạn lọc được, về căn bản, những màu sắc áp đặt bằng chính trị và quân sự của Trung Hoa, một bên, và, một bên nữa, sự thẩm thấu hoà b́nh của màu sắc Ấn, qua Chàm.

Các nhà Phật học bảo chúng ta rằng, đến thời Lư, đă có thể nói đến buổi ban đầu của một đạo Phật Việt Nam chính thức. Nếu tin điều đó, th́ ta có quyền bàn tiếp đến một nghệ thusật Phật giáo Việt Nam, như một tư cách riêng. Và chắc chắn rằng, để hiểu được nền nghệ thusật này, ta phải thấm nhuần, đến một mức độ kỹ lưỡng nào, Phật học nói chung, và Phật học Việt Nam nói riêng. Không có cách ǵ có thể tách rời cái nội dung tư tưởng đó ra khỏi nền nghệ thusật phong kiến Việt Nam, trong nhiều thế kỷ, mà khởi đầu là triều Lư. Lư Công Uẩn, qua sự giáo dục của thầy Vạn Hạnh, không phải chỉ muốn thay thế chính sách bạo ngược của Lê Long Đĩnh, tham tàn mà bất lực, mà muốn dựng lại cái nhân cách Việt Nam: quyền sống bằng tinh thần cá biệt của ḿnh, trên một lănh thổ có quyền phải toàn vẹn của ḿnh. Cũng vẫn là lịch sử, đă cho ta biết chưa bao giờ tâm trạng của con người Việt lại thanh thản, thăng bằng, và hồn nhiên, như trong vài thế kỷ đầu của nước Đại Việt.

Tại nước Đại Việt, về căn bản, và theo quan niệm chính thống, nghệ thusật là để truyền đạo và thờ cúng. Mô h́nh thẩm mỹ là tượng trưng.

Ngay từ đầu, nghệ thusật Phật giáo không có hướng duy thực. Trong suốt nhiều thế kỷ khởi nguyên, người ta không thể hiện thân h́nh đức Phật, mà chỉ h́nh dung sự có mặt của Người bằng những biểu trưng: khi là hai dấu chân, khi là con ngựa không có người cưỡi, khi là cái bánh xe luân hồi. ở đại hội kiết tập đầu tiên tại thành Vương Xá (Rafariha), các phật tử đă tượng trưng sự có mặt của đức Phật bằng một cái bàn trống. Tấm phù điêu đá vôi xanh nhạt nổi tiếng của thế kỷ II sau công lịch, để ở Bảo tàng khảo cổ học Amaravati (Amaravati Archaeological Museum) bên ấn Độ, diễn đạt hoạt cảnh đứa con trai Râhula trước đức Phật: công chúa Iashodara, vợ Người, Rahula, và hàng chục môn đệ quanh Người, đều được tạc là người thực, mà riêng Người chỉ được nhận ra qua các biểu trưng: chiếc ngai để trống, dấu chân in h́nh pháp luận, cột lửa tượng trưng trục vũ trụ...

Lịch sử mỹ thusật vẫn nghĩ rằng, chỉ mới sau cuộc đông chinh của Alếchxăng đại đế vào tận cùng Pendjab, hồi 326-325 trước Công lịch, trong lưu vực sông Indus, th́ cái lơi nhân t́nh hóa cụ thể của thẩm mỹ Hy Lạp mới tràn sang phương Đông, làm cho cái gọi là nghệ thusật Hy Lạp-Phật giáo, khởi ở Gandhara. C̣n diễn tả cái hiện diện bằng sự vắng mặt, vạch ra cái có ở cái không, vẫn là một lối suy nghĩ tượng trưng rất căn bản ở phương Đông, măi tận bây giờ.

Nghệ thusật Phật giáo vốn có sự thống nhất quốc tế trong toàn cục, mô h́nh Lư được chi phối bởi tinh thần đó.

Ta có thể nghĩ ngay đến h́nh tượng hàm nghĩa của con rồng, mà nhiều người đă viết, đến lối biểu trưng bằng những cụm mây, rồi mặt trời, sóng, nước ở ta, đến lối gợi ư trên những khoảng tranh bỏ trống ở hội họa Tống, hay đến lối gợi Thiền của vườn cây Nhật Bản. Nói cho cặn kẽ chữ nghĩa, th́ ở đây không ai miêu tả. Miêu tả là một khái niệm bắt nguồn từ yêu cầu nh́n như thật, từ yêu cầu giống, tức phương hướng của nghệ thusật tả thực ở phương Tây duy lư.

Có lẽ một nhiệm vụ của người nghiên cứu nghệ thuật ngày nay, khi đứng trước một tác phẩm Phật giáo, là phân biệt và đề cao cái bản chất nhân đạo của nghệ thuật, và bóc nó ra khỏi sự nô dịch của tôn giáo, trong khi vẫn tôn trọng đầy đủ cái mẫu số chung của hai bên.

Ở nền văn minh Đại Việt, cái c̣n lại là nghệ thuật, một khía cạnh thế tục của đạo Phật. Nó tràn ra khỏi tôn giáo. Đạo Phật, sau khi đă nâng tŕnh độ tâm linh của Phật tử đến chỗ tri thức được những giá trị lưu hành của đời sống, th́ từ trốn tránh sang một bên, để nghệ thuật tự xử lấy sáng tạo của ḿnh. Cái cảm giác hạnh phúc mà nghệ thuật mang lại, vừa con người, vừa thánh thiện, tổng hoà trên mọi quan hệ của đời sống, không một tôn giáo nào làm được trong cái hữu hạn giáo lư của ḿnh.

Hăy nh́n kỹ một lần nữa khối đá trầm tĩnh, an lạc của pho Di Đà chùa Phật Tích, Nó đă êm ái ăn ṃn hết phần trừu tượng, uy nghi của đạo, chỉ c̣n giữ lại niềm trầm lặng hân hoan của đời, khi đă chứng ngộ được đâu là chân lư. Cái Đẹp chắc c̣n nhân lên nữa, trong mai sau, khi đạo biết đâu đă phai mờ ánh sáng, chừng nào ta c̣n hiểu được sâu thêm quy luật nội tại của nghệ thuật, để khỏi dựa dẫm vào ư nghĩa của đề tài mà tôn giáo này đă khoác lên nó.

Hăy nh́n lại cả con Sầu đá nhăn nhở trên thành bậc khu thành Thăng Long: cả con Sư tử há hốc mồm đến là ghê ở bệ đá chùa Bà Tấm (Gia Lâm, Hà Nội). Nào, chúng có âm mưu ǵ ngăm đe làm người ta mất tinh thần, rồi nhân đó lôi tuột ta vào chốn hoang vu, trừu tượng của tôn giáo. Nghệ thuật ở đây vẫn như cánh diều, mà tôn giáo là sợi dây. Dây càng căng, th́ diều càng bổng. Cái thế mắc míu vào nhau đó không tổn hại ǵ cho ư nghĩa của nghệ thuật cả, trái lại, có ích cho sự bí mật, huyền kỳ cần phải có của cả hai bên.

Ch́m đắm trong ḷng tin, người nghệ sĩ phật tử, khi sáng tạo, dù từ cảm hứng của một t́nh cảm cá biệt, chỉ muốn tỏ ra ḿnh đă lănh hội Phật pháp như thế nào, và suy tư như thế nào về ư nghĩa của sự sống. Phật dạy: “Ai thấy Pháp, tức thấy Ta; ai thấy Ta, tức thấy Pháp”. Cái vật đó là cái tâm đó. Và chính cái tâm đó đă cho cái vật đó một h́nh thù chứ không phải ngược lại.

Là con Rồng cuộn sóng đĩnh đạc ở khắp nơi, hay con Phượng kiêu kỳ như ở chùa Bà Tấm, là Hoa dây hay hoạt cảnh Vũ Nhạc trên đá chạm chùa Phật Tích, thật ra, không quan trọng. Ta có thể nhận đầy đủ bản thông báo thẩm mỹ, và, qua nó, là sự có mặt của con người, ở ngay cái h́nh thể và nhịp lượn như bước đi siêu thoát, ở ngay sự toả ra tươi mát như một ư nghĩ từ bi, và, bao trùm lên tất cả, là ở ngay không khí một âm hưởng trầm mặc, thiết tha của lễ nhạc, vừa xa xôi, cao rộng, lại vừa năn nỉ giữa ḷng thế tục khổ đau.

Để thực hiện mô h́nh tượng trưng của ḿnh, mỹ thusật Lư đă đạt cái tŕnh độ ổn định, cổ điển và hoàn chỉnh, như đă một lần tôi viết. Tuy là tiếng nói của đạo, nhưng nó không đưa ta vào một cuộc sống rong chơi siêu h́nh, hối tiếc, trái lại, chính nó đề cao khía cạnh đạo đức của đời sống. Tượng Phật được tạo ra cũng không phải để trang trí cho chùa chiền, v́ đạo Phật không hướng về sự phô trương vị kỷ.

Khái niệm hiện thực, như ta hiểu theo tinh thần mỹ học hiện nay, khó ḷng đem mà đặt cho nghệ thusật này, trừ phi ta hiểu hiện vật chỉ là dấu vết của một hiện tâm ẩn giấu hay thăng hoa ở trong. Nghệ thuật Lư không bảo chúng ta khi tiếp xúc với nó th́ chồng chất lên tác phẩm mọi kiến thức, bắt bẻ từng chi tiết, v́ như vậy th́ chật vật quá. Nó bảo chúng ta hăy bỏ cái ǵ là giả tạm, biến hoại nơi gỗ đá, hăy t́m đằng sau nó cái thế giới bao la của an lành tuyệt đối, cái mà người nghệ sĩ Phật tử xưa kia, do chiêm nghiệm và chứng thực đúng bản chất sâu xa của nghệ thuật đă làm nên.

Tính chât khuyết danh của thời kỳ nghệ thuật này, có lẽ ta không nên nh́n nó dưới góc độ thân phận bị chà đạp của người nghệ sĩ trong xă hội đương thời, mà nên thấy ở đó cả sự quên ḿnh nữa: họ từ bỏ cái tôi cụ thể để hoà vào cái chung của đạo. ở đây, hành động sáng tạo, và niềm hoan lạc phát khởi trong tâm, v́ được chứng ngộ phật pháp, là một.

Họ đă kư tên vào nơi vĩnh cửu mà không nghĩ rằng phải có mặt ở chốn vô thường. Phật đă dạy tới cuối cùng, mà kinh Đại Bát Niết Bàn ghi lại: “Tự ḿnh là ngọn đèn của chính ḿnh, tự ḿnh là nơi nương tựa cho chính ḿnh”.

Mô h́nh Lư sẽ lỏng lẻo và cặn đục khi ḷng người nghệ sĩ phật tử không c̣n niềm tin thuần khiết đó. Nó sa sút rơ ràng theo đà sa sút của đạo Phật và nền văn minh Đại Việt, có lẽ từ nửa sau thế kỷ XIV. Trải thêm Mạc, Lê, Nguyễn, dù có lúc thịnh, lúc suy, th́ cũng không bao giờ nó lấy lại được cái thăng bằng cổ điển. Về sau, nó đâm ra, khi cố chấp, gọt giũa, như cái học cử nghiệp của Nho, khi ưu phiền của Lăo, có lúc lại bệ vệ ra oai, như thần quyền, để rồi phân tán, hoang mang ở thời Nguyễn.

Giống như cái đẹp lư tưởng của Hy Lạp đă bối rối, sa đà, vào thời Hy Lạp hóa, hay sự hài hoà tuyệt đỉnh của Phục hưng đă kỳ quặc, thiên lệch trong nghệ thuật Ba-rốc vậy.

Rồi lịch sử biển dâu, những triều đại suy vong, những xâm lăng bùng nổ, những hậu phương đ́nh đốn, rồi chính trị nhiễu nhương, ḷng người ly tán, bấy nhiêu thứ axít đă làm cho cái biểu trưng trong sáng một thời vỡ ra từng mảng.

May mà một mảnh đẹp, kết tinh lại trong thế ứng xử hồn nhiên, dân chủ của đời sống và ước mơ b́nh dân, đă chuyển vào điêu khắc đ́nh làng thế kỷ XVII, XVIII, và tranh dân gian sau đó, như một cấu trúc loại khác.

----------
Mô h́nh hiện đại là khoa học.

Lịch sử đă đưa đến một t́nh trạng nghịch lư, trong vài chục năm c̣n lại của thế kỷ XIX, khi mà nghệ thuật Châu Âu đang cố thoát khỏi chính ḿnh, nghĩa là khỏi sự chi phối độc quyền đă gần hai mươi lăm thế kỷ của thẩm mỹ Hy-La, để t́m những chân trời mới, trong đó phương Đông là rạng rỡ hơn cả, th́ ở Việt Nam, một xă hội Pháp hóa lại đang gấp gáp h́nh thành để theo đ̣i nền nghệ thuật Châu Âu cổ.

Năm 1873, ở Pháp, Claude Monet vừa vẽ xong bức tranh "Ấn tượng mặt trời mọc", mở ra phái ấn tượng, coi như màn đầu của nghệ thuật hiện đại phương Tây, trong đó được sử dụng nhiều bài học của phương Đông. Cũng chính năm đó, người thực dân Pháp Jean Dupuis đóng giả lái buôn, lọt vào nổ súng bắn thành Hà Nội, mở cuộc xâm chiếm Bắc kỳ lần thứ nhất.

Xếp cạnh nhau hai sự kiện rời rạc đó trong không gian, thế mà cũng gợi cho ta một suy nghĩ về buổi ra đời của nền nghệ thuật hiện đại Việt Nam: nó đă ra đời trong hoàn cảnh chung nào của thế giới, và hoàn cảnh riêng nào của chính nó?

Từ cuộc sống cổ truyền của văn hóa làng xă mà người nông dân trồng lúa, dưới cái triều phong kiến cuối cùng nhà Nguyễn, bước vào cuộc Tây hóa, th́ phải coi là một sự đảo lộn, trái khoáy với lối sống của người Việt. Gần như hai chuyến tàu đi ngược.

Đông-Tây, hai vế này của một cặp, vào mấy chục năm cuối thế kỷ XIX, trên b́nh diện thế giới, c̣n nói lên đủ mọi dị biệt, từ tư tưởng đến khoa học, từ đạo đức đến nghệ thuật, c̣n chứa chất những hiểu nhầm và ngộ nhận ở tầng lớp trí thức, chưa đi tới một ngôn ngữ chung trong lĩnh vực nào. Nhiều trí giả vẫn tuyên bố: Đông là Đông, Tây là Tây. Một cái trục rạch ṛi vẫn đứng giữa những đối lập căng thẳng vẫn tồn tại tự thưở nào đến đầu thế kỷ XX: Tâm/ Vật, T́nh/ Lư, Trí tuệ khoa học/ Văn chương tâm linh...

Trong nghệ thuật, ở phương Tây bấy giờ, ngoài những biệt lệ của một ít trào lưu tiền phong, c̣n th́, đối với quần chúng rỗng răi cái hố sâu giữa đối tượng được quan sát (thiên nhiên) và ư thức chủ thể (nghệ sĩ vẫn được nh́n theo từng cách riêng phiến diện. Tây bấy giờ vẫn cho rằng muốn đến hết cái biết, th́ phải tẩy trừ những đặc chất chủ quan. Cái nh́n hướng ngoại kiểu Tây chọc thẳng ra ngoài, quan sát thiên nhiên, đo lường sự vật, chiếm lĩnh chúng bằng phân tích khoa học, lập thành hệ thống. Con người bị đặt vào phạm trù động vật. Đông, ngược lại, bằng cái nh́n hướng nội, cho rằng mỗi cá nhân có thể tự t́m ṭi ở ngay bản thân ḿnh một thế giới nhiệm màu, mục đích của mọi suy tầm chân lư. Trao tất cả cho khách quan có nghĩa là tiêu diệt con người, với đời sống nội tâm cá biệt của nó.

Bởi vậy, thẩm mỹ bên Đông phản đối cái cách chỉ lo đạt tới, chỉ công nhận những ǵ có thể đạt được trong phạm vi kiểm chứng bằng kinh nghiệm hiện tiền. Với nghệ thuật, như vậy quá hẹp ḥi và vơ đoán.

Hẳn rằng sự chuyển biến lật ngược lối sống của người nông dân trồng lúa Việt Nam sang hướng văn minh khoa học Âu Tây vào tận cuối thế kỷ XIX là tất yếu. Tôi không bàn việc đó. Tôi chỉ muốn h́nh dung sự trở ḿnh chật vật này trong từng con người, trong từng ứng xử.

Và tôi nghĩ: chừng nào sự trở ḿnh chật vật kia đă căn bản ổn định, mà, một cách tự nguyện, th́ cái nh́n thế giới của họ mới thành h́nh; và, cùng với nó, mới có thể có (hoặc có thể chấp nhận) một không gian tạo h́nh mới, theo nghĩa khoa học.

Lần này, người Việt Nam buộc phải thay đổi để trở thành một con người khác, quyết liệt, nhọc nhằn hơn người Đại Việt xưa rất nhiều. Bởi, trước nhất, lần này cuộc tiếp biến văn hóa đă theo sau những họng súng. ở mức độ nhất định, nó mang hai tính chất không tích cực: 1) đứt đoạn; 2) áp đặt.

Người Việt lúc này, mà đặc biệt là các nghệ sĩ nhạy cảm, làm sao b́ được người Đại Việt xưa kia ở cái tinh thần tự giác làm chủ vận mệnh của ḿnh và của đất nước ḿnh, làm sao có được cái tâm trạng phơi phới của cánh diều gặp gió. T́nh huống Đại Việt độc lập xưa kia là t́nh huống của một nước Ư phục hưng, c̣n t́nh huống Việt Nam thuộc địa lần này là t́nh huống c̣n quằn quại tối tăm hơn Hy Lạp khi rơi vào tay La Mă.

Chiếm xong nước ta, người Pháp nắm lấy mỹ thuật ngay, nhưng, măi gần nửa thế kỷ sau, họ mới lập Ecole des Beaux Arts de I'Indochine để chính thức hệ thống hóa sự đào tạo nghệ sĩ theo kiểu Tây.

Ta có ǵ để cảm ơn trường Mỹ thuật Đông Dương không? Có. Đó là những bài học kỹ thuật theo tinh thần khoa học mà mọi người văn minh phải biết. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục của cụ Lương Văn Can và các văn thân yêu nước năm 1906 cũng từng đưa khoa học vào chương tŕnh, nào toán, nào ngữ pháp, nào địa lư...

Trường Mỹ thuật Đông Dương truyền thụ cái nh́n theo phép viễn cận khoa học đă được hoàn chỉnh từ thời phục hưng nước ư. Thầy Leonardo da Vinci đă định hướng cho bốn thế kỷ hội hoạ Âu Châu bằng luận điểm kiểu như điểm 201, trang 90, trong thiên "Khảo luận về hội hoạ" của ông: "Hội họa được xây dựng trên nền móng viễn cận học. Nó chỉ là nghệ thuật diễn tả đúng chức vụ của con mắt, nghĩa là mô phỏng các đối tượng theo đúng như h́nh thù của chúng hiện ra trước mắt..."

Tất cả các thành tựu, và hạn chế, của trường Mỹ thuật Đông Dương là ở đó.

Dĩ nhiên cái nh́n khoa học này đă giúp bốn, năm thế kỷ hội hoạ bác học Âu Châu đạt được ư nguyện miêu tả một cách tài t́nh, đẹp đẽ và hợp lư mọi vật thể trong không gian, trước hết là một cách chính xác (bằng tỷ lệ đậm nhạt, sáng tối, phối cảnh...). "Giống y như thật", vốn là yêu cầu số một của mỹ học duy lư Âu Châu từ cổ đại đến măi đầu thế kỷ XX. Học thuyết về sự "bắt chước" là cái trục chính mà nghệ thuật phương Tây xoay quanh, từ Hy Lạp cổ đại tới hội hoạ ấn tượng.

Có lẽ ta phải hiểu gốc rễ và địa vị của h́nh họa hàn lâm (design académique) từ cái yêu cầu định hướng đó. Từ gốc mỹ học Hy Lạp, bản chất cái đẹp, theo nhà duy vật thô sơ Démocrte, là "nằm trong trật tự ngay ngắn, trong đối xứng, trong hoà điệu giữa các bộ phận, trong những quan hệ toán học". Châu Âu trong nhiều thế kỷ (XVII, XVIII), người ta c̣n tin rằng bắt trẻ con học h́nh học là thứ kỷ luật tốt nhất để chúng hiểu được vẻ đẹp của con người. Hơn thế nữa, để chúng có thói quen nh́n đời một cách chính xác. Đến đây th́ trật tự của h́nh họa hàn lâm đă trở thành trật tự của thế giới và của đạo đức. Cho nên ta không lấy làm lạ rằng thời oanh liệt nhất của h́nh hoạ hàn lâm là thời quân chủ chuyên chế của mấy ông "Napoléon" bên Pháp. Vẻ đẹp chính xác, hợp lư của nó được đề cao trong hoàn cảnh lịch sử nước Ư phục hưng, là khi con người vừa ra khỏi đêm dài Trung cổ, hănh diện với tri thức mới (toán, y, thiên văn,...) và mơ ước xác lập một trật tự xă hội cũng hợp lư như đầu óc con người. Cái không gian tạo h́nh mới của thời Phục hưng cốt tạo cho sự vật cái khả năng hiện lên đúng như nó vẫn vậy, nghĩa là không bị khúc xạ bởi khoa thần học Trung cổ lắt léo, mơ hồ.

Ngày nay, người ta coi phép viễn cận khoa học đó cũng chỉ ngang mọi ước lệ khác của những không gian và thời gian khác (phương Đông, châu Phi, Mỹ tiền Côlông, dân gian,...) mà thôi. Cách dạy h́nh hoạ, bởi vậy đă thay đổi và mở rộng quan niệm rất nhiều.

Mọi bài học khác mà học sinh trường Mỹ thuật Đông Dương được giảng dạy, như giải phẫu thân thể người, nặn tượng, trang trí, lịch sử mỹ thuật... đều là để phục vụ cho cái nh́n theo mạng lưới viễn cận khoa học cổ điển này.

Cả chất liệu sơn dầu cũng vậy. Nh́n vào lịch sử sơn dầu, ta thấy nó được sinh ra và lớn lên bằng sự bám sát yêu cầu duy thực của h́nh ảnh nghệ thuật mà nó chuyên trở, từ khi h́nh ảnh c̣n chập chững cuối thời Trung cổ, cho tới thành công của anh em Van Eyck đầu thế kỷ XV, và tận mọi biến hoá về sau. Để truyền thụ lư tưởng về thế giới vật chất trong cái đẹp h́nh hài của nó, hơn là một phương tiện, sơn dầu là một thành tố khoa học nằm ngay trong cấu trúc cùng lúc với h́nh tượng nghệ thuật.

Sơn dầu chỉ có thể ra đời ở châu Âu. Chỉ có sơn dầu mới làm nổi cái nhiệm vụ của thứ "thẩm mỹ đo lường, duy lư và toán học" mà ông Aristote đă truyền lại.

Cái cách nh́n thế giới đó không có tiền đề trong ứng xử cổ truyền của nghệ thuật Việt Nam trước đây. Nói cách khác, ở Việt Nam trước đây không có cơ sở xă hội cho cái nh́n "khoa học" đó. Vậy, khi một thế hệ người Việt, sống ngay trên đất Việt, mà có những biểu hiện nghệ thuật như ở Châu Âu, lại nhuần nhuyễn, thành đạt, th́ phải hiểu là bởi xă hội Việt Nam đă có cơ sở cho cái nh́n đó trong cấu trúc của ḿnh chứ không phải v́ vậy mà tách số thanh niên hăng hái, tài hoa kia ra khỏi gốc rễ của họ.

Mặt khác, lại phải công bằng mà thấy, dù là thứ hội họa cứng cáp như Nguyễn Đỗ Cung, hay điều ḥa như Trần Văn Cẩn, trí thức như Tô Ngọc Vân, hay đam mê như Nguyễn Gia Trí, học vấn như Lương Xuân Nhị, hay thật thà, quê mùa như Nguyễn Phan Chánh, th́ tất cả đều để lộ cái ưu của sự đào tạo chính quy ở một nhà trường kiểu mới, lấy đúc kết khoa học của châu Âu làm bài học.

Kể cả khi Nguyễn Đỗ Cung, Trần Quang Trân, Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Tô Ngọc Vân... nh́n ra cái khả năng kỳ diệu của sơn mài, hay Nguyễn Đỗ Cung và vài anh em nữa theo đuổi cái không gian bùn g nổ của hội hoạ lập thể, rồi những tài năng xuất sắc ở thế hệ cuối cùng của trường, như Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, c̣n đi xa hơn trong bút pháp và quan niệm, th́ ta vẫn nhận ra sự tiếp sức hàng dọc của những danh họa ưu tú trong nền mỹ thuật bác học Châu Âu.

Đó là điều tốt chứ sao!

Nhưng, có ư kiến cho rằng trường mỹ thuật Đông Dương có công khai hóa rất lớn, v́ nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam là con đẻ trực tiếp từ cái bụng đào tạo của nó, từ đó mà thoát ra một cách gọn ghẽ. Tôi không thấy như vậy. Người ta không thể làm nên một nền nghệ thuật bằng cách mở một cái trường. Nghệ thuật chưa bao giờ là do những bài học kỹ thuật làm nên cả. Nghệ thuật là con người, và, ta nói thêm, con người - xă hội.

Là tôi muốn t́m nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam trong đ̣i hỏi thực sự tự nguyện chân chính, về mặt thẩm mỹ, của một xă hội mới, trên cơ sở những thay đổi về chất của lối sống. Cho nên tôi đă nghĩ rằng trường mỹ thuật Đông Dương chỉ là biểu hiện hành chính tất yếu của đ̣i hỏi kia, và hai mươi năm tồn tại của nó có ư nghĩa của sự chuẩn bị thủ tục, để cho một nền mỹ thuật mới và một lớp nghệ sĩ mới của dân tộc thực sự xuất hiện, sau Cách mạng Tháng Tám, với đầy đủ tư chất phải có.

C̣n có thể nh́n vấn đề kỹ hơn. Sẽ là quá lời chăng, khi tôi nói rằng thành công của lớp nghệ sĩ Mỹ thuật Đông Dương chính là sự phản ứng thẩm mỹ của họ đối với nhà trường, sau khi họ đă tiếp thu những bài học kỹ thuật ở nó. Sự giác ngộ thẩm mỹ, từ nhân cách nghệ sĩ của người Việt, trên lập trường truyền thống dân tộc, trước bài bản của nhà trường thuộc địa, mới thật là thu hoạch và đóng góp của thế hệ này. Cuộc đấu tranh tư tưởng đó là phải có, mới chính là lư do ra đời và tồn tại của một mở đường. Và chính người Việt đă tự mở lấy đường.

Đơn xin mở trường của ông V. Tardieu được toàn quyền Merlin thông qua ngày 27- 10-1924, chẳng nói rơ lập trường thực dân của họ là ǵ: "Mục đích ta mở trường này là để kích việc đào tạo nghệ sĩ bản xứ dưới ảnh hưởng của các phương pháp và tư tưởng Pháp". Nguyễn Phan Chánh, và ta quư mến, chẳng đă từng "v́ quê mùa" mà được các thầy Tây bỏ mặc, muốn vẽ ǵ th́ vẽ ở một góc lớp là ǵ? Nguyễn Gia Trí tài hoa đă từng bỏ hẳn nhà trường mấy năm liền, v́ bực ḿnh và chê trách lối dạy học độc đoán của nó là ǵ? Rồi ông Joncheres chẳng đă miệt thị người An nam chỉ khéo tay chứ không có phẩm chất sáng tạo là ǵ? Cùng kư tên vào bài báo đấu tranh của Nguyễn Đỗ Cung, trên một tờ "Ngày nay" năm 1939, tôi nhớ đúng thứ tự, c̣n có Lưu Văn Śn, Trần Văn Cẩn, Hoàng Lập Ngôn, Lương Xuân Nhị và Nguyễn Khang. Chắc đấy không phải là những đứa con ngoan của nhà trường lúc đó.

Ta c̣n có thể nh́n rơ thêm chân dung nhà nước bảo hộ, đối diện mỹ thuật ta, ngay khi Nguyễn Phan Chánh đă vẽ Chơi ô ăn quan lừng danh, và Vũ Cao Đàm đă nặn Chân dung em bé tóc dài hoàn hảo, qua báo chí của họ. Đó là bài Muốn ǵ th́ muốn, phải đóng ngay cửa trường Mỹ thuật lại trên tờ "Thức tỉnh kinh tế" (Eveil économique) số 24-5-1931, do ông giám đốc kiêm tổng biên tập của nó H. Cucherousset, viết: "Hơi đâu mà mỗi năm lại sản xuất ra mười ông nghệ sĩ lớn. Tiền của đâu mà mua tranh của họ. Cái xứ Đông Dương thảm hại này làm sao có thể so đọ được với một quận bên Pháp". Bài báo c̣n mỉa mai nhắc lại đối thoại giữa một nhà báo Pháp và một ông giáo nhà trường này: "Cái trường của anh là hoàn toàn bịp bợm".

Và ta có một tỷ dụ đích đáng trên nước bạn Liên Xô trước đây. Thời Sa hoàng, cũng vậy. Ngài có công lập Acađêmi hoàng gia, mời thầy bên Pháp và ư về dạy. Nhưng để có một nền mỹ thuật mới, nằm trong mỹ cảm dân tộc, nói được tiếng nói chân thật của nước Nga điêu tàn, uất hận, th́ nhóm sinh viên ưu tú ở đấy, đứng đầu là Cramxcôi, đă quyết liệt chống lại và khinh bỉ cái Acađêmi trưởng giả đó, bỏ thi, bỏ trường, trở về với cuộc sống nhân dân. Chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỷ XIX đă ra đời ngoài mảnh đất học viện, "Nhóm hoạ sĩ lưu động ở Nga" là con đẻ của cuộc đấu tranh này.

Mà dễ thường, xưa nay, không một nghệ sĩ thực thụ nào là do nhà trường làm ra cả. Nghệ sĩ tự t́m thấy nhu cầu và ư tưởng sáng tạo ở cái phần cao đẹp của chính ḿnh, trong cuộc dấn thân vinh nhục vào cuộc sống muôn màu, bao la. Và lẽ nữa, khi ngồi trước giá vẽ hay bàn xoay, để thực sự có động tác sáng tạo, th́ anh c̣n phải quên đi bài học nhà trường. Khi đó, nói như Cezanne, "con người là tiếng vọng hoàn thiện".

Thành đạt của thế hệ trường mỹ thuật Đông Dương, bởi vậy chủ yếu là ở giác ngộ thẩm mỹ, trên nỗ lực của từng nhân cách công dân - nghệ sĩ của từng người. C̣n cái nh́n mới, thực sự, và đúng nghĩa của mỹ thuật hiện đại Việt Nam phải là cái nh́n qua viễn cận của hai cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc, coi như cơ sở của một cuộc cách mạng văn hóa căn bản.


Đại ư của tôi là căn cứ vào mỹ thuật mà hiểu lịch sử dân tộc, th́ có hai bước ngoặt lớn đă làm biến đổi hẳn lối sống toàn cục của người Việt: một lần, để trở thành nền văn minh Đại Việt, một lần nữa để Việt Nam nhập hẳn vào ḍng khoa học chung của thế giới hiện đại. Mỗi lần đều có sự chuẩn bị và vật lộn lâu dài, từng bước (trên cơ sở kinh tế và thiết chế nhà nước, mà tôi không có ư bàn ở đây). Và mỗi lần đó đă đẻ ra một mô h́nh thẩm mỹ. Chỉ trên cơ sở biến đổi hẳn lối sống, th́ một cách nh́n thế giới khác và mới, mới nảy sinh. Mô h́nh thẩm mỹ là sự kết đọng và biểu trưng, theo cách nghệ thuật, cái nh́n đó. Bên cạnh, là sự tiếp biến văn hóa, nhưng ở mỗi trường hợp lịch sử, hiện tượng đó là lại diễn ra một cách khác với một mức độ khác.

Trong thời kỳ tồn tại của ḿnh, không một mô h́nh nào đứng yên. Nó sống động và c̣n đẻ ra những mô h́nh con, trong từng biến động văn hóa nhỏ hơn, trong những giai đoạn mờ hơn, ngắn hơn.

Cuối cùng, sự chuyển tiếp của các mô h́nh thẩm mỹ không nằm trong ư nghĩa tiến hóa thông thường (từ thô sơ đến hoàn chỉnh, từ thấp lên cao). Từ nước Âu Lạc đến nước Đại Việt là một bước tiến lớn về văn minh. Nhưng nghệ thuật th́ khác. Bảo rằng tượng Di Đà Phật Tích là hơn trống Ngọc Lũ là vô lối. Cũng như đừng nói tranh Tô Ngọc Vân là hơn tranh làng Hồ. Máy móc cho rằng văn minh càng cao th́ nghệ thuật càng hay, càng đẹp, th́ chắc chẳng khác ǵ nói rằng nghệ thuật nước Mỹ ngày nay đă bỏ nghệ thuật nước ư của ông Raphael lại đằng sau rất xa.

Nghệ thuật có quy luật riêng. Cái đẹp nghệ thuật phải được cảm thụ và phán đoán trên chính cấu trúc của bản thân nó. Và chỉ nên so sánh với những ǵ trong cùng một mô h́nh, trống Ngọc Lũ với trống Hoà B́nh, Tô Ngọc Vân với Trần Văn Cẩn.

Sự tiến hóa trong nghệ thuật là có. Có về mặt xă hội. C̣n về mặt thẩm mỹ, th́ nên được hiểu là từng bước đi trong quá tŕnh h́nh thành và hoàn thiện một mô h́nh. Sự chuyển tiếp giữa các mô h́nh thẩm mỹ, nên hiểu là chuyển sang, chứ không phải là tiến lên.

 

c