4. Chương Kim Cang Tạng:
Khi ấy, ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát ở trong hàng đại chúng, đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba ṿng, và kính cẩn chắp tay, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi quỳ thẳng bạch rằng:
Bạch Đức Thế Tôn, ngài đă v́ các vị Bồ Tát nói rơ tánh “Viên Giác Thanh Tịnh” của Như Lai, và chỉ dạy những phương tiện, tuần tự tu hành để nhập tánh Viên Giác. Ngài đă vén mở mây vô minh mờ ám cho các chúng sanh. Thính chúng trong hội nầy, nhờ ḷng từ bi của Phật khai hóa, mà mắt trí huệ được sáng tỏ.
Bạch Đức Thế Tôn:
Nếu các chúng sanh đă thành Phật từ xưa đến nay, th́ tại làm sao lại có tất cả vô minh để trở lại làm chúng sanh nữa?
Nếu chúng sanh sẵn có các vô minh, th́ do nhân duyên ǵ mà Đức Như Lai lại nói “Chúng sanh đă thành Phật từ xưa tới nay?”
Nếu mười phương chúng sanh đă thành Phật từ xưa, về sau lại sanh ra vô minh, vậy th́ các Đức Như Lai hiện nay đă thành Phật rồi, chừng nào các ngài sanh trở lại phiền năo nữa?
Cúi xin Đức Đại Bi Thế Tôn, v́ các vị Bồ Tát hiện tại và tất cả chúng sanh đời sau, nhổ sạch gốc rễ nghi lầm, khiến cho chúng sanh được ngộ nhập đạo vô thượng.
Ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.
Khi đó, Đức Thế Tôn khen ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát và dạy rằng:
Nầy thiện nam, quư lắm. Ông v́ các v́ Bồ Tát hiện tại và các chúng sanh đời sau, thưa hỏi Như Lai những đạo lư diệu huyền.
Nay ta v́ các ông nói giáo pháp Đại Thừa, nghĩa lư rốt ráo và cao thượng, khiến cho các vị Bồ Tát tu học trong mười phương, và tất cả các chúng sanh đời sau, đều đoạn trừ hết các điều nghi ngờ, đặng tín tâm chắc chắn. Vậy các ông nên chăm chú nghe lời ta chỉ dạy.
Khi đó, ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát và đại chúng đều vui mừng, kính cẩn nghe lời Phật chỉ dạy
Nầy thiện nam, tất cả các pháp có thủy-chung, sanh-diệt, tiền-hậu, có-không, tụ-tán, khởi- dừng, xoay-vần, qua-lại, các món thủ-xả, mỗi niệm nối luôn. Những loại kể trên đều là luân hồi cả. Người chưa ra khỏi luân hồi mà nghĩ bàn đến Viên Giác, th́ tánh Viên Giác đó cũng trở thành luân hồi. Nếu người ra khỏi luân hồi (hết mê vọng rồi) th́ không c̣n thấy có các việc hư vọng ấy nữa.
Nầy thiện nam, ví như v́ con mắt nháy mà thấy nước dợn sóng; V́ mắt xem không kịp (đốm lửa quay tṛn) mà thấy thành ṿng lửa; Nhơn mây bay mà thấy mặt trăng chạy; V́ thuyền đi mà thấy bờ trôi. Trong lúc các vật đây động như mắt nháy, mây bay, thuyền chạy, v.v... mà các vật yên tịnh như nước đứng, lửa đốm, trăng dừng, v.v... mà c̣n thấy chuyển động thay, huống chi ông dùng tâm cấu nhiễm sanh tử luân hồi mà quán sát tánh Viên Giác Thanh Tịnh của Như Lai, th́ tánh Viên Giác nầy làm sao chẳng cấu nhiễm? Thế nên ông mới sanh ra ba điều nghi vấn trên.
Nầy thiện nam, ví như người có bịnh ḷa mắt, trông nơi hư không vọng thấy có các hoa đốm lăng xăng. Đến khi bịnh nḥa lặm hết rồi, th́ hoa đốm kia tự diệt. Lúc bấy giờ, người ấy không nên hỏi : “Cái bịnh ḷa nhặm đă diệt rồi, vậy chừng nào sanh trở lại nữa?” Tại sao thế? V́ cái ḷa nhặm nó vọng huyễn không có thật thể vậy.
Và cũng không nên hỏi: “Những chỗ hoa đốm diệt ở hư không kia, vậy chừng nào hoa đốm ấy sanh trở lại nữa?” Tại sao thế? V́ trong hư không vốn không có hoa đốm, cho nên nó không có sanh hoa đốm hay diệt hoa đốm vậy
Sanh tử và Niết Bàn đối với tánh Viên Giác cũng đồng như hoa đốm sanh diệt trong hư không. Tánh Viên Giác vẫn nhiệm mầu viên măn, yên lặng chiếu soi, ĺa cái nhặm vô minh và cảnh giới hoa đốm.
Nầy thiện nam, nên biết hư không kia c̣n không phải tạm có và tạm không, huống chi tánh Viên Giác của Như Lai là bản tánh của hư không, nó b́nh đẳng tùy thuận các duyên, mà lại tạm có và tạm không hay sao?
Nầy thiện nam, ví như chất kim khoáng sau khi được nấu lọc, bỏ hết quặng rồi, th́ chỉ c̣n vàng y. Chất vàng này không phải do nấu lọc mới sanh v́ nó có sẵn từ trước kia rồi, và khi đă thành vàng y, th́ không bao giờ trở lại thành quặng nữa, dầu trải qua bao nhiêu năm, nó vẫn không hư hoại.
Tánh Viên Giác Thanh Tịnh của Như Lai cũng như thế.
Nầy thiện nam, tánh Viên Giác của Như Lai vốn không có Bồ Đề và Niết Bàn, không có thành Phật và chẳng thành Phật, cũng không có luân hồi và phi luân hồi.
Nầy thiện nam, rất đỗi các cảnh giới Niết Bàn thân tâm đoạn diệt của Thinh Văn tiểu thừa kia, c̣n không thể dùng tâm phân biệt mà thân chứng được, huống chi cảnh giới Viên Giác Thanh Tịnh của Như Lai mà lại dùng tâm suy nghĩ so đo của chúng sanh th́ làm sao nhập được? Cũng như người dùng lửa đom đóm để đốt núi Tu-Di th́ làm sao đốt được? Người dùng tâm luân hồi, tâm vọng chấp luân hồi mà muốn vào biển Niết Bàn tịch tịnh của Như Lai th́ không thể được.
Thế nên ta dạy: Tất cả các vị Bồ Tát và chúng sanh đời sau, trước hết phải đoạn hết căn bản sanh tử luân hồi từ vô thỉ.
Nầy thiện nam, nếu có suy nghĩ phân biệt là từ vọng tâm khởi, nên tất cả các suy nghĩ đều là cái vọng tưởng phân biệt duyên theo bóng dáng của sáu trần. Nó hư vọng như hoa đốm trong hư không, chẳng phải là chơn tâm. Nếu ông dùng cái vọng tâm suy nghĩ nầy mà suy nghĩ cảnh giới của chư Phật th́ cảnh giới ấy cũng lẩn quẩn trong ṿng vọng tưởng của chúng sanh mà thôi. Cũng như người ngồi trông đợi cho hoa đốm giữa hư không kết thành ra quả th́ không có thể được .
Nầy thiện nam, ông dùng tâm hư vọng thô phù, sanh ra các lối thấy chấp vọng đó, cho nên ông không thể nhập được cảnh Viên Giác chơn thật của Như Lai. Bởi thế nên những lời ông hỏi trên đều là hư vọng phân biệt, không phải lời hỏi chơn chánh.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:
Kim Cang Tạng, phải biết
Như Lai tánh vắng lặng
Chưa từng có chung thỉ
Nếu dùng tâm luân hồi
Suy nghĩ cảnh giới Phật
Cảnh Phật thành luân hồi !
Người ở bờ luân hồi
Không thể vào biển Phật
Phật tánh tuy sẵn có
Phải tu mới hiển hiện
Cũng như vàng sẵn có
Phải lọc quặng mới thành
Khi đă thành vàng y
Không trở lại làm quặng
Sanh tử và Niết Bàn
Phàm phu và Chư Phật
Thảy đều như hoa đốm
Tâm suy nghĩ đă huyễn
Nên lời hỏi cũng huyễn
Làm sao nhập được chơn?
Nếu rơ được tâm nầy
Mới cầu được Viên Giác.